vitamin cho bé biếng ăn | viên uống bổ sung vitamin cho trẻ | cách bổ sung vitamin cho trẻ | vitamin tăng sức đề kháng cho bé | vitamin cho bé
Sản phẩm được Bộ Y tế cấp phép lưu hành trên toàn quốc số: 4080/2009/YT-CNTC

Viên cá sấu bột động lực giao nang là dòng sản phẩm cao cấp bổ trợ sức khỏe cho nam giới được dùng nguyên liệu chính là dương cụ cá sấu, phối hợp với những vị thuốc quý.
Căn cứ vào nguyên lý y học Trung Hoa, ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất y dược hiện đại, công ty dược phẩm Áo Phúc Lai – Trung Quốc đã nghiên cứu, bào chế ra sản phẩm viên nang cá sấu, là phương thuốc có tác dụng hỗ trợ phục hồi lại chức năng vốn có mà trời đất đã ban cho.
Với thành phần đều có nguồn gốc từ thiên nhiên, an toàn cho sức khỏe như:
- Dương cụ cá sấu: có tác dụng điều trị rối loạn cương dương, giúp bổ sung, kích thích cơ thể tạo testosterone nội sinh, làm gia tăng ham muốn một cách tự nhiên.
- Toả dương: chữa liệt dương, xuất tinh sớm, chưa kịp giao hợp tinh đã xuất.
- Huyết nai: chữa suy nhược thần kinh, di tinh, rối loạn sinh lý ở nam giới. Kết hợp với Đương quy Cam thảo có tác dụng bổ trợ cho sức khỏe.

Công dụng:
- Sử dụng hàng ngày để bổ sung khoáng chất và giúp cơ thể tạo testosterone nội sinh tự nhiên mỗi ngày.
- Sản phẩm là trợ thủ đắc lực cho các quý ông giúp bổ thận tráng dương, gia tăng sức khỏe tổng quát, tăng sức dẻo dai, nâng cao khả năng hoạt động thể lực và trí óc.

Liều dùng: - Bồi bổ sức khỏe: Ngày 1 lần, mỗi lần 1 viên
- Điều trị yếu sinh lý: Ngày 1 lần, mỗi lần 3 viên
Lưu ý: Một số người sau khi uống sẽ có phản ứng khô miệng, đỏ mặt, đây là hiện tượng bình thường, sẽ tự động phục hồi. Sản phẩm này không phù hợp với trẻ em, phụ nữ có thai, những người cao huyết áp, bệnh tim.

Liên hệ mua hàng: Công ty cổ phần IMMC
Số 31, ngõ 40/2 Tạ Quang Bửu, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại: 04.36228694 Fax: 04.36228529
Hotline: 0982226306

Viên cá sấu bột động lực giao nang - BỔ THẬN TRÁNG DƯƠNG, TĂNG CƯỜNG SINH LỰC

Sản phẩm được Bộ Y tế cấp phép lưu hành trên toàn quốc số: 4080/2009/YT-CNTC

Viên cá sấu bột động lực giao nang là dòng sản phẩm cao cấp bổ trợ sức khỏe cho nam giới được dùng nguyên liệu chính là dương cụ cá sấu, phối hợp với những vị thuốc quý.
Căn cứ vào nguyên lý y học Trung Hoa, ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất y dược hiện đại, công ty dược phẩm Áo Phúc Lai – Trung Quốc đã nghiên cứu, bào chế ra sản phẩm viên nang cá sấu, là phương thuốc có tác dụng hỗ trợ phục hồi lại chức năng vốn có mà trời đất đã ban cho.
Với thành phần đều có nguồn gốc từ thiên nhiên, an toàn cho sức khỏe như:
- Dương cụ cá sấu: có tác dụng điều trị rối loạn cương dương, giúp bổ sung, kích thích cơ thể tạo testosterone nội sinh, làm gia tăng ham muốn một cách tự nhiên.
- Toả dương: chữa liệt dương, xuất tinh sớm, chưa kịp giao hợp tinh đã xuất.
- Huyết nai: chữa suy nhược thần kinh, di tinh, rối loạn sinh lý ở nam giới. Kết hợp với Đương quy Cam thảo có tác dụng bổ trợ cho sức khỏe.

Công dụng:
- Sử dụng hàng ngày để bổ sung khoáng chất và giúp cơ thể tạo testosterone nội sinh tự nhiên mỗi ngày.
- Sản phẩm là trợ thủ đắc lực cho các quý ông giúp bổ thận tráng dương, gia tăng sức khỏe tổng quát, tăng sức dẻo dai, nâng cao khả năng hoạt động thể lực và trí óc.

Liều dùng: - Bồi bổ sức khỏe: Ngày 1 lần, mỗi lần 1 viên
- Điều trị yếu sinh lý: Ngày 1 lần, mỗi lần 3 viên
Lưu ý: Một số người sau khi uống sẽ có phản ứng khô miệng, đỏ mặt, đây là hiện tượng bình thường, sẽ tự động phục hồi. Sản phẩm này không phù hợp với trẻ em, phụ nữ có thai, những người cao huyết áp, bệnh tim.

Liên hệ mua hàng: Công ty cổ phần IMMC
Số 31, ngõ 40/2 Tạ Quang Bửu, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại: 04.36228694 Fax: 04.36228529
Hotline: 0982226306
Đọc thêm..

Điều trị bệnh bạch biến

Bệnh bạch biến là một bệnh tế bào sinh sắc tố ở da bị phá hủy khiến da mất đi lớp sắc tố melamin, do đó vùng da bị mất sắc tố trở thành màu trắng, có khi có những đốm nâu xen kẽ, lông hoặc tóc trên vùng da bị bạch biến cũng có màu trắng.

Bệnh bạch biến

Các đốm trắng này thường gặp ở lưng bàn tay, cổ tay, cẳng tay, mặt,cổ, lưng, vùng sinh dục nhưng không bao giờ người ta thấy bạch biến ở vùng lòng bàn tay, lòng bàn chân, niêm mạc (có lẽ do các vùng này không có lông chăng?)

Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi, nguyên nhân gây bệnh bạch biến hiện nay chưa rõ, người ta cho rằng bệnh bạch biến là một bệnh tự miễn khiến các tế bào sắc tố bị phá hủy. Bệnh bạch biến có tính chất di truyền vì có khoảng 30% người bị bạch biến có người trong gia đình cũng bị bệnh này.

Các yếu tố thuận lợi cho bệnh bạch biến phát sinh:

- Do stress: căng thẳng tinh thần trong cuộc sống, chấn thương tâm lý (sau tai nạn, sau thảm họa, người thân bị mất…)

- Do tiếp xúc với hóa chất: như phenol, thiol.

- Bệnh nhân đang mắc các bệnh khác như: bệnh lý tuyến giáp, đái tháo đường, thiếu máu ác tính…

Điều trị:

Vì chưa biết nguyên nhân nên hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu (cả đông y lẫn tây y) bệnh bạch biến. Các phương pháp điều trị chủ yếu là:

- Quang hóa trị liệu: dùng thuốc làm tăng cảm ứng với ánh sáng như uống hoặc bôi Psoralen + chiếu tia tử ngoại.

- Bôi corticoid để làm giảm miễn dịch tại chỗ da bị bạch biến.

- Nếu các phương pháp trên thất bại người ta có thể dùng phương pháp phẫu thuật ghép da, cấy tế bào sắc tố.

- Nên có cuộc sống thoải mái, yêu đời, ăn ngủ, làm việc, nghỉ ngơi có điều độ, tránh những căng thẳng trong cuộc sống. Việc điều trị rất lâu dài nên phải kiên trì, không nóng vội, nên lạc quan tin tưởng vì nếu thất vọng, chán nản bệnh sẽ càng nặng thêm.

BS NGUYỄN ĐÌNH SANG – Chuyên khoa bác sĩ gia đình, TT Y tế quận I

Ý kiến bạn đọc:

Bạn đọc: Trần Thị Kim Thoa
ĐT: 0986419986
Địa chỉ: P 209 B4 – Tập thể Khương Thượng – Đống Đa – Hà Nội.
Email: suongnguyentieu11246@yahoo.com.vn

Tôi đã đọc về các phương pháp chữa trị căn bệnh bạch biến, và tôi muốn đưa ra bài thuốc Nam chữa trị căn bệnh này:

Trước đây, khi 14 tuổi, tôi cũng đã bị bệnh này, nó ở trên đầu, có cảm giác hơi ngứa, màu da đầu chuyển sang bệch bệch và hơi hồng, tóc chỗ đó bị rụng gần hết. Tôi đã đến bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình, bệnh viện của trường Đại học Y Thái Bình và cả mấy thầy Đông Y nổi tiếng ở vùng đó. Các bác sỹ đều kết luận là bệnh bạch biến và nói có uống thuốc cũng chỉ là thử nghiệm chứ chưa chắc đã khỏi được bệnh. Cho nên lúc đó tôi uống khá nhiều thuốc và chỉ toàn là thuốc bổ, cùng với Hà thủ ô. Khi về nhà, mẹ tôi mới nhớ ra chai thuốc Nam đã ngâm rượu từ lâu và lấy ra dùng. Vì có lần mẹ tôi đã nghe được các thầy lang nói rằng: lấy củ Riềng già, thái  mỏng phơi nắng, và đem sao vàng để nguội, sau đó ngâm với rượu trắng để trong thời gian 2- 3 tháng sau đó lấy ra xát vào da nơi nào bị bạch biến, hoặc lang ben thì sẽ chữa khỏi.

Sau một thời gian uống thuốc và xát nước riềng hàng ngày thì tóc tôi đã mọc trở lại, và bệnh cũng đã khỏi hẳn cho đến nay. Tôi nghĩ rằng, rất có thể phương thuốc dân gian này lại có tác dụng với những bệnh nhân bị bạch biến. Hy vọng nó sẽ giúp ích cho nhiều người.

Theo Tuổi trẻ

Điều trị bệnh bạch biến

Điều trị bệnh bạch biến

Bệnh bạch biến là một bệnh tế bào sinh sắc tố ở da bị phá hủy khiến da mất đi lớp sắc tố melamin, do đó vùng da bị mất sắc tố trở thành màu trắng, có khi có những đốm nâu xen kẽ, lông hoặc tóc trên vùng da bị bạch biến cũng có màu trắng.

Bệnh bạch biến

Các đốm trắng này thường gặp ở lưng bàn tay, cổ tay, cẳng tay, mặt,cổ, lưng, vùng sinh dục nhưng không bao giờ người ta thấy bạch biến ở vùng lòng bàn tay, lòng bàn chân, niêm mạc (có lẽ do các vùng này không có lông chăng?)

Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi, nguyên nhân gây bệnh bạch biến hiện nay chưa rõ, người ta cho rằng bệnh bạch biến là một bệnh tự miễn khiến các tế bào sắc tố bị phá hủy. Bệnh bạch biến có tính chất di truyền vì có khoảng 30% người bị bạch biến có người trong gia đình cũng bị bệnh này.

Các yếu tố thuận lợi cho bệnh bạch biến phát sinh:

- Do stress: căng thẳng tinh thần trong cuộc sống, chấn thương tâm lý (sau tai nạn, sau thảm họa, người thân bị mất…)

- Do tiếp xúc với hóa chất: như phenol, thiol.

- Bệnh nhân đang mắc các bệnh khác như: bệnh lý tuyến giáp, đái tháo đường, thiếu máu ác tính…

Điều trị:

Vì chưa biết nguyên nhân nên hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu (cả đông y lẫn tây y) bệnh bạch biến. Các phương pháp điều trị chủ yếu là:

- Quang hóa trị liệu: dùng thuốc làm tăng cảm ứng với ánh sáng như uống hoặc bôi Psoralen + chiếu tia tử ngoại.

- Bôi corticoid để làm giảm miễn dịch tại chỗ da bị bạch biến.

- Nếu các phương pháp trên thất bại người ta có thể dùng phương pháp phẫu thuật ghép da, cấy tế bào sắc tố.

- Nên có cuộc sống thoải mái, yêu đời, ăn ngủ, làm việc, nghỉ ngơi có điều độ, tránh những căng thẳng trong cuộc sống. Việc điều trị rất lâu dài nên phải kiên trì, không nóng vội, nên lạc quan tin tưởng vì nếu thất vọng, chán nản bệnh sẽ càng nặng thêm.

BS NGUYỄN ĐÌNH SANG – Chuyên khoa bác sĩ gia đình, TT Y tế quận I

Ý kiến bạn đọc:

Bạn đọc: Trần Thị Kim Thoa
ĐT: 0986419986
Địa chỉ: P 209 B4 – Tập thể Khương Thượng – Đống Đa – Hà Nội.
Email: suongnguyentieu11246@yahoo.com.vn

Tôi đã đọc về các phương pháp chữa trị căn bệnh bạch biến, và tôi muốn đưa ra bài thuốc Nam chữa trị căn bệnh này:

Trước đây, khi 14 tuổi, tôi cũng đã bị bệnh này, nó ở trên đầu, có cảm giác hơi ngứa, màu da đầu chuyển sang bệch bệch và hơi hồng, tóc chỗ đó bị rụng gần hết. Tôi đã đến bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình, bệnh viện của trường Đại học Y Thái Bình và cả mấy thầy Đông Y nổi tiếng ở vùng đó. Các bác sỹ đều kết luận là bệnh bạch biến và nói có uống thuốc cũng chỉ là thử nghiệm chứ chưa chắc đã khỏi được bệnh. Cho nên lúc đó tôi uống khá nhiều thuốc và chỉ toàn là thuốc bổ, cùng với Hà thủ ô. Khi về nhà, mẹ tôi mới nhớ ra chai thuốc Nam đã ngâm rượu từ lâu và lấy ra dùng. Vì có lần mẹ tôi đã nghe được các thầy lang nói rằng: lấy củ Riềng già, thái  mỏng phơi nắng, và đem sao vàng để nguội, sau đó ngâm với rượu trắng để trong thời gian 2- 3 tháng sau đó lấy ra xát vào da nơi nào bị bạch biến, hoặc lang ben thì sẽ chữa khỏi.

Sau một thời gian uống thuốc và xát nước riềng hàng ngày thì tóc tôi đã mọc trở lại, và bệnh cũng đã khỏi hẳn cho đến nay. Tôi nghĩ rằng, rất có thể phương thuốc dân gian này lại có tác dụng với những bệnh nhân bị bạch biến. Hy vọng nó sẽ giúp ích cho nhiều người.

Theo Tuổi trẻ

Đọc thêm..

Tây y với bệnh Zona

Zona là một bệnh ngoài da thường gặp. Nếu tính thời gian trong suốt cuộc đời thì tỷ lệ người mắc bệnh có thể lên tới 20% dân số. Bệnh có thể phát ở bất kỳ lứa tuổi nào nhưng tuổi càng cao thì tỷ lệ mắc bệnh càng tăng.
Đa số bệnh nhân zona có tiền sử mắc bệnh thủy đậu từ bé. Virut gây bệnh zona cùng loài với virut gây bệnh thủy đậu có tên là virut varicella. Bệnh thủy đậu gặp chủ yếu ở trẻ em dưới 5 tuổi. Sau khi bệnh thủy đậu đã khỏi thì một số virut varicella vẫn còn tồn tại ở trạng thái tiềm tàng, không gây bệnh, cư trú ở hạch thần kinh. Khi gặp điều kiện thuận lợi như: suy giảm miễn dịch, suy nhược cơ thể, các sang chấn tinh thần… các virut này trở lại trạng thái hoạt động, nhân lên, phát triển ra các đầu dây thần kinh cảm giác và gây bệnh.


Lúc đầu bệnh nhân thường bị đau rát hoặc cả đau và rát ở một vùng da và tổ chức dưới da ở một bên thân thể. Nhiều bệnh nhân còn bị giật nhoi nhói từng cơn ở các vùng da này. Cảm giác đau rát tồn tại khoảng 1-3 ngày thì tại vùng da này sẽ nổi lên các mụn nước, tập trung thành từng chùm, nếu không điều trị kịp thời thì sẽ phát triển thành các bọng nước. Lúc đầu tổn thương chỉ có các đám nhỏ phân bố rải rác thành một dải, nếu không điều trị thì các mảng nhỏ này lan rộng ra và liên kết với nhau thành một mảng tổn thương lớn khu trú ở toàn bộ một vạt da ở một bên thân thể: cả một vùng ngực hoặc cả một vùng mạng sườn… Khi chưa có tổn thương da thì việc chẩn đoán bệnh thường gặp nhiều khó khăn. Khi bệnh nhân chỉ có đau ở vùng liên sườn bên trái thì rất dễ chẩn đoán nhầm với cơn đau thắt ngực. Đau ở vùng hố chậu phải có thể chẩn đoán nhầm với viêm ruột thừa. Đau ở vùng mạng sườn hay bị nhầm với bệnh lý của gan, dạ dày , ruột, thận… Đau ở vùng mắt hay nhầm với bệnh lý về mắt. Có những bệnh nhân bị đau đầu dữ dội một bên trước khi phát tổn thương da của zona thần kinh sọ não thì bệnh nhân rất lo lắng và đôi khi đã phải chụp CT sọ não để loại trừ các bệnh khác.

Về chăm sóc da tại chỗ: Tuyệt đối không gãi, cạo, xát chanh, xát muối, đắp đỗ xanh, gạo nếp. Nếu làm như trên sẽ làm cho tổn thương trở nên sâu hơn, lan rộng hơn và đặc biệt gây nhiễm trùng, loét. Bệnh nhân vẫn có thể tắm được hằng ngày nhưng không được xát xà phòng trực tiếp lên vùng da bị bệnh. Không cần kiêng ăn uống.

Thuốc điều trị

Nếu điều trị muộn hoặc điều trị sớm mà không đủ liều thì sẽ để lại nhiều biến chứng. Thời gian để trị liệu cho kết quả tốt nhất là 48 giờ sau khi có tổn thương da. Trong vòng một tuần thì kết quả chậm hơn nhưng vẫn tốt. Nếu để muộn quá thì kết quả điều trị kém và có thể để lại các di chứng như: đau kéo dài nhiều tháng, nhiều năm thậm chí có những người đau kéo dài đến hết cuộc đời, đặc biệt ở những người cao tuổi. Nếu zona gây tổn thương nhánh mắt dây thần kinh số V (được chẩn đoán là zona mắt) thì có thể gây giảm hoặc mất thị lực hoàn toàn. Nếu zona gây tổn thương dây thần kinh số VII (Hội chứng Ramsay Hunt) có thể gây liệt mặt, méo mồm. Các biến chứng khác có thể gặp như: loét, sẹo lồi…

Tại chỗ : khi tổn thương còn mụn nước, tiết dịch nhiều thì không nên bôi các loại thuốc mỡ vì sẽ làm tăng phù nề tại tổn thương. Nên bôi các loại dung dịch như jarish, dalibour, dung dịch kháng sinh, xanh methylen, castelani…, sau 5-7 ngày tổn thương da khô hơn thì có thể bôi kem acyclovir ngày 3-5 lần.

Toàn thân : bệnh nhân bắt buộc phải uống đủ liều kháng sinh diệt virut dưới sự theo dõi chặt chẽ của bác sĩ chuyên khoa da liễu. Kháng sinh là acyclovir uống 1 lần 800mg x 5 lần trong 1 ngày, cách 3 giờ uống 1 lần. Thời gian uống thuốc là 7 – 8 ngày liên tục. Thuốc có tác dụng phụ là nôn hoặc tiêu chảy ở 3 – 5% các trường hợp. Khi có tác dụng phụ bệnh nhân phải đến khám lại ngay. Thuốc acyclovir không dùng cho bệnh nhân suy thận, trong trường hợp này có thể sử dụng điện châm cũng đạt được kết quả rất tốt ở nhiều bệnh nhân. Nếu đau quá có thể dùng thuốc giảm đau. Nếu có điều kiện thì có thể chiếu tia laser Helinion tại chỗ để tổn thương da chóng lành và góp phần hồi phục tổn thương dây thần kinh. Trong giai đoạn bệnh đang tiến triển có thể tiêm gama globulin 16% để tăng cường miễn dịch. Những bệnh nhân đau rát nhiều và mức độ đau giảm ít sau điều trị acyclovir thì có thể uống thêm các thuốc giảm đau thần kinh như lyrica, gabapentine, carbamazepine, amitriptyline nhưng phải có chỉ định và theo dõi của bác sĩ chuyên khoa da liễu.

Zona thường không tái phát, không gây tổn thương các phủ tạng và não.

Vấn đề lây nhiễm zona

Virus Varicella Zoster có thể truyền qua rau thai. Trên thực tế chúng tôi thấy một số trường hợp bị zona sau khi tiếp xúc với bệnh nhân thủy đậu hoặc bệnh nhân zona. Ngược lại cũng có trường hợp con của một số bệnh nhân zona mắc thủy đậu sau vài tuần.

Theo Sức khỏe & Đời sống

Tây y với bệnh Zona

Tây y với bệnh Zona

Zona là một bệnh ngoài da thường gặp. Nếu tính thời gian trong suốt cuộc đời thì tỷ lệ người mắc bệnh có thể lên tới 20% dân số. Bệnh có thể phát ở bất kỳ lứa tuổi nào nhưng tuổi càng cao thì tỷ lệ mắc bệnh càng tăng.
Đa số bệnh nhân zona có tiền sử mắc bệnh thủy đậu từ bé. Virut gây bệnh zona cùng loài với virut gây bệnh thủy đậu có tên là virut varicella. Bệnh thủy đậu gặp chủ yếu ở trẻ em dưới 5 tuổi. Sau khi bệnh thủy đậu đã khỏi thì một số virut varicella vẫn còn tồn tại ở trạng thái tiềm tàng, không gây bệnh, cư trú ở hạch thần kinh. Khi gặp điều kiện thuận lợi như: suy giảm miễn dịch, suy nhược cơ thể, các sang chấn tinh thần… các virut này trở lại trạng thái hoạt động, nhân lên, phát triển ra các đầu dây thần kinh cảm giác và gây bệnh.


Lúc đầu bệnh nhân thường bị đau rát hoặc cả đau và rát ở một vùng da và tổ chức dưới da ở một bên thân thể. Nhiều bệnh nhân còn bị giật nhoi nhói từng cơn ở các vùng da này. Cảm giác đau rát tồn tại khoảng 1-3 ngày thì tại vùng da này sẽ nổi lên các mụn nước, tập trung thành từng chùm, nếu không điều trị kịp thời thì sẽ phát triển thành các bọng nước. Lúc đầu tổn thương chỉ có các đám nhỏ phân bố rải rác thành một dải, nếu không điều trị thì các mảng nhỏ này lan rộng ra và liên kết với nhau thành một mảng tổn thương lớn khu trú ở toàn bộ một vạt da ở một bên thân thể: cả một vùng ngực hoặc cả một vùng mạng sườn… Khi chưa có tổn thương da thì việc chẩn đoán bệnh thường gặp nhiều khó khăn. Khi bệnh nhân chỉ có đau ở vùng liên sườn bên trái thì rất dễ chẩn đoán nhầm với cơn đau thắt ngực. Đau ở vùng hố chậu phải có thể chẩn đoán nhầm với viêm ruột thừa. Đau ở vùng mạng sườn hay bị nhầm với bệnh lý của gan, dạ dày , ruột, thận… Đau ở vùng mắt hay nhầm với bệnh lý về mắt. Có những bệnh nhân bị đau đầu dữ dội một bên trước khi phát tổn thương da của zona thần kinh sọ não thì bệnh nhân rất lo lắng và đôi khi đã phải chụp CT sọ não để loại trừ các bệnh khác.

Về chăm sóc da tại chỗ: Tuyệt đối không gãi, cạo, xát chanh, xát muối, đắp đỗ xanh, gạo nếp. Nếu làm như trên sẽ làm cho tổn thương trở nên sâu hơn, lan rộng hơn và đặc biệt gây nhiễm trùng, loét. Bệnh nhân vẫn có thể tắm được hằng ngày nhưng không được xát xà phòng trực tiếp lên vùng da bị bệnh. Không cần kiêng ăn uống.

Thuốc điều trị

Nếu điều trị muộn hoặc điều trị sớm mà không đủ liều thì sẽ để lại nhiều biến chứng. Thời gian để trị liệu cho kết quả tốt nhất là 48 giờ sau khi có tổn thương da. Trong vòng một tuần thì kết quả chậm hơn nhưng vẫn tốt. Nếu để muộn quá thì kết quả điều trị kém và có thể để lại các di chứng như: đau kéo dài nhiều tháng, nhiều năm thậm chí có những người đau kéo dài đến hết cuộc đời, đặc biệt ở những người cao tuổi. Nếu zona gây tổn thương nhánh mắt dây thần kinh số V (được chẩn đoán là zona mắt) thì có thể gây giảm hoặc mất thị lực hoàn toàn. Nếu zona gây tổn thương dây thần kinh số VII (Hội chứng Ramsay Hunt) có thể gây liệt mặt, méo mồm. Các biến chứng khác có thể gặp như: loét, sẹo lồi…

Tại chỗ : khi tổn thương còn mụn nước, tiết dịch nhiều thì không nên bôi các loại thuốc mỡ vì sẽ làm tăng phù nề tại tổn thương. Nên bôi các loại dung dịch như jarish, dalibour, dung dịch kháng sinh, xanh methylen, castelani…, sau 5-7 ngày tổn thương da khô hơn thì có thể bôi kem acyclovir ngày 3-5 lần.

Toàn thân : bệnh nhân bắt buộc phải uống đủ liều kháng sinh diệt virut dưới sự theo dõi chặt chẽ của bác sĩ chuyên khoa da liễu. Kháng sinh là acyclovir uống 1 lần 800mg x 5 lần trong 1 ngày, cách 3 giờ uống 1 lần. Thời gian uống thuốc là 7 – 8 ngày liên tục. Thuốc có tác dụng phụ là nôn hoặc tiêu chảy ở 3 – 5% các trường hợp. Khi có tác dụng phụ bệnh nhân phải đến khám lại ngay. Thuốc acyclovir không dùng cho bệnh nhân suy thận, trong trường hợp này có thể sử dụng điện châm cũng đạt được kết quả rất tốt ở nhiều bệnh nhân. Nếu đau quá có thể dùng thuốc giảm đau. Nếu có điều kiện thì có thể chiếu tia laser Helinion tại chỗ để tổn thương da chóng lành và góp phần hồi phục tổn thương dây thần kinh. Trong giai đoạn bệnh đang tiến triển có thể tiêm gama globulin 16% để tăng cường miễn dịch. Những bệnh nhân đau rát nhiều và mức độ đau giảm ít sau điều trị acyclovir thì có thể uống thêm các thuốc giảm đau thần kinh như lyrica, gabapentine, carbamazepine, amitriptyline nhưng phải có chỉ định và theo dõi của bác sĩ chuyên khoa da liễu.

Zona thường không tái phát, không gây tổn thương các phủ tạng và não.

Vấn đề lây nhiễm zona

Virus Varicella Zoster có thể truyền qua rau thai. Trên thực tế chúng tôi thấy một số trường hợp bị zona sau khi tiếp xúc với bệnh nhân thủy đậu hoặc bệnh nhân zona. Ngược lại cũng có trường hợp con của một số bệnh nhân zona mắc thủy đậu sau vài tuần.

Theo Sức khỏe & Đời sống
Đọc thêm..

Hiểu đúng về chống lão hoá da

Để xoá đi dấu ấn thời gian trên gương mặt, nhiều chị em không tiếc tiền cho các sản phẩm chống lão hoá hay cầu cứu tới dịch vụ spa, thẩm mỹ viện… Tuy nhiên, chị em lại thiếu kiến thức trầm trọng về sự tấn công lặng lẽ của quá trình này…

1. Axit AHA ăn mòn da mặt

Sai.

Axit AHA còn được gọi với cái tên đơn giản là axit trái cây. Nó được chiết xuất thành kem dưỡng da ban ngày, mặt nạ dưỡng da từ mía, cam, táo…

Loại axit này thực sự là người bạn thân thiết của sắc đẹp nhờ khả năng đẩy nhanh quá trình tái tạo tế bào mới và đồng thời loại bỏ các tế bào da chết (làm chậm lại quá trình lão hoá da).

2. Các chất chống ôxy hoá ngăn chặn các gốc tự do

Đúng.

Các gốc tự do thực chất là các phân tử được sản sinh ra từ sự hô hấp tế bào, stress, ô nhiễm môi trường và chế độ sinh hoạt kém khoa học. Do thuộc tính ôxy hoá rất cao nên các gốc tự do có thể phá huỷ hoàn toàn màng tế bào, gây ra sự lão hoá sớm.

Để ngăn chặn sự tích tụ các gốc tự do, ta cần cung cấp cho cơ thể các chất chống ôxy hoá như vitamin E (có nhiều trong trái cây, rau xanh, mầm ngũ cốc…), vitamin C (các loại trái cây như cam, bưởi, dâu tây, xoài…), betacaroten (có trong các loại trái cây, rau củ màu đỏ), trà xanh.

3. Collagen có sẵn trong cơ thể

Đúng.

Là một loại protein có chức năng chính là chất “keo” kết nối các mô trong cơ thể và tạo sự đàn hồi cho da, collagen thực sự rất quan trọng đối với sức khoẻ cũng như sắc đẹp của con người.

Theo năm tháng, sự sản xuất collagen trong cơ thể kém đi, da mất dần đi độ căng và sự đàn hồi, da chùng và nhão sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nếp nhăn lộ diện.

4. Liệu pháp trẻ hoá bằng Botox là liều thuốc độc

Đúng.

Botox hay độc tố botulinum được sử dụng để làm tê liệt các cơ bắp trong phẫu thuật mắt và não. Từ 10 năm đổ lại đây, botox xuất hiện ngày càng nhiều trong phẫu thuật thẩm mỹ để làm trẻ hoá làn da trong chốc lát.

Thực tế, botox không phải là thần dược như nhiều chị em nghĩ. Nó không có khả năng làm bạn trẻ đến 20 tuổi hay xoá các rãnh nếp nhăn bằng co rút cơ. Chính vì thế, chị em cần hết sực thận trọng khi sử dụng liệu pháp trẻ hoá này để tránh những tác dụng phụ không mong muốn.

5. Màng chắn nắng chống lại sự lão hoá da

Đúng.

Các tia cực tím UV là thủ phạm chính gây ra sự lão hoá sớm của da. Vì thế, trước khi sử dụng các loại kem chống lão hoá, cần bảo vệ làn da trước sự tấn công của ánh nắng mặt trời dù rằng bạn không thường xuyên tiếp xúc với ánh nắng hay không bao giờ phơi nắng đi chăng nữa.

Các loại kem dưỡng da ban ngày thường có chỉ số chống nắng SPF là 15 và thông thường các sản phẩm chăm sóc da ban ngày hiện nay đều có một chỉ số chống nắng nhất định.

6. Lượng vitamin C trong da tăng theo tuổi tác

Hoàn toàn sai.

So với làn da thông thường, tỉ lệ vitamin C ở làn da “có tuổi” bị cắt giảm tới 70%.

Vì thế, cần bổ sung gấp một chế độ ăn uống giàu vitamin C bởi vitamin này rất cần thiết cho sự sản sinh collagen và hạn chế các tác nhân gây hại từ tia cực tím.

7. Làn da của nam giới già nhanh hơn so với phụ nữ

Sai.

Làn da của nam giới thường nhờn và dày hơn của nữ giới. Chính nhờ sự khác biệt này nên cánh mày râu  bị tuổi già “hỏi thăm” muộn hơn so với chị em phụ nữ.

8. Cung cấp nước và dưỡng ẩm đều đặn là giải pháp tốt ngăn chặn lão hoá da

Đúng.

Thường xuyên cung cấp nước cho da mặt có tác dụng làm chậm quá trình lão hoá da. Tốt nhất nên uống đủ nước mỗi ngày và sử dụng đều đặn các sản phẩm dưỡng ẩm (dạng kem, sữa hoặc mousse).

Theo Khiết Linh – dantri.com.vn

Hiểu đúng về chống lão hoá da

Hiểu đúng về chống lão hoá da

Để xoá đi dấu ấn thời gian trên gương mặt, nhiều chị em không tiếc tiền cho các sản phẩm chống lão hoá hay cầu cứu tới dịch vụ spa, thẩm mỹ viện… Tuy nhiên, chị em lại thiếu kiến thức trầm trọng về sự tấn công lặng lẽ của quá trình này…

1. Axit AHA ăn mòn da mặt

Sai.

Axit AHA còn được gọi với cái tên đơn giản là axit trái cây. Nó được chiết xuất thành kem dưỡng da ban ngày, mặt nạ dưỡng da từ mía, cam, táo…

Loại axit này thực sự là người bạn thân thiết của sắc đẹp nhờ khả năng đẩy nhanh quá trình tái tạo tế bào mới và đồng thời loại bỏ các tế bào da chết (làm chậm lại quá trình lão hoá da).

2. Các chất chống ôxy hoá ngăn chặn các gốc tự do

Đúng.

Các gốc tự do thực chất là các phân tử được sản sinh ra từ sự hô hấp tế bào, stress, ô nhiễm môi trường và chế độ sinh hoạt kém khoa học. Do thuộc tính ôxy hoá rất cao nên các gốc tự do có thể phá huỷ hoàn toàn màng tế bào, gây ra sự lão hoá sớm.

Để ngăn chặn sự tích tụ các gốc tự do, ta cần cung cấp cho cơ thể các chất chống ôxy hoá như vitamin E (có nhiều trong trái cây, rau xanh, mầm ngũ cốc…), vitamin C (các loại trái cây như cam, bưởi, dâu tây, xoài…), betacaroten (có trong các loại trái cây, rau củ màu đỏ), trà xanh.

3. Collagen có sẵn trong cơ thể

Đúng.

Là một loại protein có chức năng chính là chất “keo” kết nối các mô trong cơ thể và tạo sự đàn hồi cho da, collagen thực sự rất quan trọng đối với sức khoẻ cũng như sắc đẹp của con người.

Theo năm tháng, sự sản xuất collagen trong cơ thể kém đi, da mất dần đi độ căng và sự đàn hồi, da chùng và nhão sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nếp nhăn lộ diện.

4. Liệu pháp trẻ hoá bằng Botox là liều thuốc độc

Đúng.

Botox hay độc tố botulinum được sử dụng để làm tê liệt các cơ bắp trong phẫu thuật mắt và não. Từ 10 năm đổ lại đây, botox xuất hiện ngày càng nhiều trong phẫu thuật thẩm mỹ để làm trẻ hoá làn da trong chốc lát.

Thực tế, botox không phải là thần dược như nhiều chị em nghĩ. Nó không có khả năng làm bạn trẻ đến 20 tuổi hay xoá các rãnh nếp nhăn bằng co rút cơ. Chính vì thế, chị em cần hết sực thận trọng khi sử dụng liệu pháp trẻ hoá này để tránh những tác dụng phụ không mong muốn.

5. Màng chắn nắng chống lại sự lão hoá da

Đúng.

Các tia cực tím UV là thủ phạm chính gây ra sự lão hoá sớm của da. Vì thế, trước khi sử dụng các loại kem chống lão hoá, cần bảo vệ làn da trước sự tấn công của ánh nắng mặt trời dù rằng bạn không thường xuyên tiếp xúc với ánh nắng hay không bao giờ phơi nắng đi chăng nữa.

Các loại kem dưỡng da ban ngày thường có chỉ số chống nắng SPF là 15 và thông thường các sản phẩm chăm sóc da ban ngày hiện nay đều có một chỉ số chống nắng nhất định.

6. Lượng vitamin C trong da tăng theo tuổi tác

Hoàn toàn sai.

So với làn da thông thường, tỉ lệ vitamin C ở làn da “có tuổi” bị cắt giảm tới 70%.

Vì thế, cần bổ sung gấp một chế độ ăn uống giàu vitamin C bởi vitamin này rất cần thiết cho sự sản sinh collagen và hạn chế các tác nhân gây hại từ tia cực tím.

7. Làn da của nam giới già nhanh hơn so với phụ nữ

Sai.

Làn da của nam giới thường nhờn và dày hơn của nữ giới. Chính nhờ sự khác biệt này nên cánh mày râu  bị tuổi già “hỏi thăm” muộn hơn so với chị em phụ nữ.

8. Cung cấp nước và dưỡng ẩm đều đặn là giải pháp tốt ngăn chặn lão hoá da

Đúng.

Thường xuyên cung cấp nước cho da mặt có tác dụng làm chậm quá trình lão hoá da. Tốt nhất nên uống đủ nước mỗi ngày và sử dụng đều đặn các sản phẩm dưỡng ẩm (dạng kem, sữa hoặc mousse).

Theo Khiết Linh – dantri.com.vn

Đọc thêm..

Bệnh Thủy đậu – Nguyên nhân, triệu chứng và phương pháp điều trị

Thuỷ đậu là một bệnh ngoài da do virus gây ra lây truyền rất nhanh. Thuỷ đậu có thể gây những biến chứng nguy hiểm. Điều trị bệnh chủ yếu là điều trị triệu chứng. Tất cả trẻ em, trừ những trẻ suy giảm miễn dịch đều nên được tiêm phòng thuỷ đậu.


1. Thủy đậu là gì? Nguyên nhân gây bệnh?

Thuỷ đậu là một bệnh ngoài da do virus gây ra rất thường gặp ở trẻ em. Tác nhân gây bệnh là virus varicella-zoster. Đa số trẻ em đều đã bị thuỷ đậu trước 15 tuổi, nhiều nhất từ 5 đến 9 tuổi, tuy nhiên bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi. Thuỷ đậu thường nặng hơn khi xảy ra ở người lớn và ở trẻ còn nhỏ. Mùa đông xuân là thời gian các trường hợp thuỷ đậu xảy ra nhiều nhất.

2. Thủy đậu lây lan như thế nào?

Thuỷ đậu lây truyền rất nhanh. Nó rất dễ lây lan giữa các thành viên trong gia đình và giữa các học sinh cùng trường khi hít phải những giọt nước bọt lơ lửng trong không khí hoặc tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết từ các mụn nước và vết lở trên da người bệnh. Nó còn có thể lây truyền gián tiếp qua tiếp xúc với quần áo hoặc các vật dụng khác đã nhiễm dịch tiết từ các vết mụn phồng giộp. Bệnh nhân có thể truyền bịnh cho người khác 5 ngày trước và sau khi phát ban và không còn lây lan nữa khi các mụn nước khô vảy.

3. Triệu chứng và dấu hiệu của thủy đậu?

Triệu chứng thường xuất hiện từ 14 đến 16 ngày sau lần tiếp xúc đầu tiên nhưng có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong khoảng thời gian từ 10 đến 21 ngày. Thuỷ đậu biểu hiện bằng sốt nhẹ từ một đến 2 ngày, cảm giác mệt mỏi toàn thân, và phát ban (thường là dấu hiệu đầu tiên của bệnh).

Một số rất ít trường hợp, bệnh nhân có thể bị bệnh mà không thấy phát ban. Ban thuỷ đậu thường dưới dạng những chấm đỏ lúc đầu, sau đó phát triển thành mụn nước, vỡ ra thành vết lở, rồi đóng vảy. Thường phát ban đầu tiên ở da đầu, xuống thân mình (nơi ban trổ nhiều nhất), sau cùng xuống đến tay chân. Những phần da nào sẵn bị kích ứng như hăm tã, eczema, cháy nắng v.v. thường bị ban thuỷ đậu tấn công nặng nhất. Ban thuỷ đậu thường rất ngứa.

4. Điều trị thủy đậu ra sao?

- Điều trị thuỷ đậu chủ yếu là điều trị triệu chứng như chống ngứa chẳng hạn. Có thể dùng Acetaminophen (Tylenol) để giảm sốt và đau nhức thường đi kèm các bệnh nhiễm siêu vi trong giai đoạn đầu. Không bao giờ được dùng aspirin hoặc những thuốc cảm có chứa aspirin cho trẻ em do nguy cơ xảy ra hội chứng Reye (một bệnh chuyển hoá nặng gồm tổn thương não và gan dẫn đến tử vong).

- Tắm thường xuyên bằng nước ấm và xà phòng trung tính sẽ bớt ngứa. Ngoài ra, có thể bôi lên da các dung dịch làm dịu và làm ẩm như dung dịch calamine.

- Chlorpheniramine, fexofenadine v.v. hoặc các loại thuốc kháng histamine khác có tác dụng giảm ngứa. Hãy bàn luận với bác sĩ về các chọn lựa trong điều trị.

- Ngoài thuốc men, cần áp dụng một số biện pháp dự phòng khác. Với trẻ nhỏ, nên cắt sát móng tay để tránh tổn thương da do gãi và đề phòng nguy cơ nhiễm trùng thứ phát.

Sau cùng, đối với một số trường hợp thuỷ đậu có thể dùng Acyclovir. Acyclovir là một thuốc kháng virus được sử dụng để rút ngắn thời gian của bệnh. Thuốc chỉ hiệu quả nếu được dùng sớm, trong thời gian từ 1 đến 2 ngày khi bắt đầu phát ban thuỷ đậu. Acyclovir thường được chỉ định cho những bệnh nhân có bệnh kèm theo nguy hiểm (ví dụ lupus, đái tháo đường, người cao tuổi, bệnh nhân suy giảm miễn dịch).

5. Các biến chứng có thể xảy ra?

- Thuỷ đậu có thể gây biến chứng. Khi các mụn nước vỡ ra và bị nhiễm trùng có thể gây sẹo xấu, đặc biệt khi bệnh nhân gãi nhiều ở vùng tổn thương.

- Nhiễm trùng da là biến chứng của thuỷ đậu thường gặp nhất ở trẻ em.

- Biến chứng khác thường gặp là tổn thương thần kinh trung ương bao gồm những rối loạn ở tiểu não (rối loạn thất điều tiểu não, chóng mặt, run, rối loạn ngôn ngữ), viêm não (nhức đầu, co giật, rối loạn ý thức), tổn thương thần kinh (liệt thần kinh) và hội chứng Reye (kết hợp tổn thương gan và não khả năng gây tử vong, có thể xảy ra do dùng aspirin ở trẻ em).

- Các biến chứng đặc biệt nặng có thể xảy ra trên bệnh nhân AIDS , lupus, bịnh bạch cầu, và ung thư. Biến chứng còn xảy ra trên những bệnh nhân dùng thuốc ức chế miễn dịch, như các corticoid. Trẻ sơ sinh có mẹ bị thuỷ đậu ở 3 tháng cuối của thai kỳ sẽ chịu những nguy cơ cao của bệnh. Nếu mẹ phát bệnh thuỷ đậu 5 ngày trước hoặc 2 ngày sau khi sanh, tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh có thể lên đến 30%.

6. Thủy đậu có thể phòng ngừa bằng vaccin?

Người đã bị thuỷ đậu sẽ có miễn dịch suốt đời và không bao giờ bị lại. Nhưng nhiều khi về sau, virus có thể bộc phát lên bề mặt trở lại dưới dạng zona (giời leo). Mục tiêu hiện nay của nhiều nước trên thế giới là làm sao tiêm phòng thuỷ đậu cho hầu hết các trẻ em. Chỉ cần tiêm 2 mũi. Mũi đầu tiên tiêm lúc trẻ 1 tuổi và mũi thứ hai (tiêm nhắc lại) lúc 4 tuổi. Đối với người lớn chưa bị thuỷ đậu, có thể tiêm phòng vào bất cứ lúc nào. Phản ứng phụ khi tiêm phòng thuỷ đậu xảy ra không đáng kể. Tất cả trẻ em, trừ những trẻ suy giảm miễn dịch, đều nên được tiêm phòng thuỷ đậu.

BS. ĐỒNG NGỌC KHANH
Tham khảo: Medicine Net

Bệnh Thủy đậu – Nguyên nhân, triệu chứng và phương pháp điều trị

Bệnh Thủy đậu – Nguyên nhân, triệu chứng và phương pháp điều trị

Thuỷ đậu là một bệnh ngoài da do virus gây ra lây truyền rất nhanh. Thuỷ đậu có thể gây những biến chứng nguy hiểm. Điều trị bệnh chủ yếu là điều trị triệu chứng. Tất cả trẻ em, trừ những trẻ suy giảm miễn dịch đều nên được tiêm phòng thuỷ đậu.


1. Thủy đậu là gì? Nguyên nhân gây bệnh?

Thuỷ đậu là một bệnh ngoài da do virus gây ra rất thường gặp ở trẻ em. Tác nhân gây bệnh là virus varicella-zoster. Đa số trẻ em đều đã bị thuỷ đậu trước 15 tuổi, nhiều nhất từ 5 đến 9 tuổi, tuy nhiên bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi. Thuỷ đậu thường nặng hơn khi xảy ra ở người lớn và ở trẻ còn nhỏ. Mùa đông xuân là thời gian các trường hợp thuỷ đậu xảy ra nhiều nhất.

2. Thủy đậu lây lan như thế nào?

Thuỷ đậu lây truyền rất nhanh. Nó rất dễ lây lan giữa các thành viên trong gia đình và giữa các học sinh cùng trường khi hít phải những giọt nước bọt lơ lửng trong không khí hoặc tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết từ các mụn nước và vết lở trên da người bệnh. Nó còn có thể lây truyền gián tiếp qua tiếp xúc với quần áo hoặc các vật dụng khác đã nhiễm dịch tiết từ các vết mụn phồng giộp. Bệnh nhân có thể truyền bịnh cho người khác 5 ngày trước và sau khi phát ban và không còn lây lan nữa khi các mụn nước khô vảy.

3. Triệu chứng và dấu hiệu của thủy đậu?

Triệu chứng thường xuất hiện từ 14 đến 16 ngày sau lần tiếp xúc đầu tiên nhưng có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong khoảng thời gian từ 10 đến 21 ngày. Thuỷ đậu biểu hiện bằng sốt nhẹ từ một đến 2 ngày, cảm giác mệt mỏi toàn thân, và phát ban (thường là dấu hiệu đầu tiên của bệnh).

Một số rất ít trường hợp, bệnh nhân có thể bị bệnh mà không thấy phát ban. Ban thuỷ đậu thường dưới dạng những chấm đỏ lúc đầu, sau đó phát triển thành mụn nước, vỡ ra thành vết lở, rồi đóng vảy. Thường phát ban đầu tiên ở da đầu, xuống thân mình (nơi ban trổ nhiều nhất), sau cùng xuống đến tay chân. Những phần da nào sẵn bị kích ứng như hăm tã, eczema, cháy nắng v.v. thường bị ban thuỷ đậu tấn công nặng nhất. Ban thuỷ đậu thường rất ngứa.

4. Điều trị thủy đậu ra sao?

- Điều trị thuỷ đậu chủ yếu là điều trị triệu chứng như chống ngứa chẳng hạn. Có thể dùng Acetaminophen (Tylenol) để giảm sốt và đau nhức thường đi kèm các bệnh nhiễm siêu vi trong giai đoạn đầu. Không bao giờ được dùng aspirin hoặc những thuốc cảm có chứa aspirin cho trẻ em do nguy cơ xảy ra hội chứng Reye (một bệnh chuyển hoá nặng gồm tổn thương não và gan dẫn đến tử vong).

- Tắm thường xuyên bằng nước ấm và xà phòng trung tính sẽ bớt ngứa. Ngoài ra, có thể bôi lên da các dung dịch làm dịu và làm ẩm như dung dịch calamine.

- Chlorpheniramine, fexofenadine v.v. hoặc các loại thuốc kháng histamine khác có tác dụng giảm ngứa. Hãy bàn luận với bác sĩ về các chọn lựa trong điều trị.

- Ngoài thuốc men, cần áp dụng một số biện pháp dự phòng khác. Với trẻ nhỏ, nên cắt sát móng tay để tránh tổn thương da do gãi và đề phòng nguy cơ nhiễm trùng thứ phát.

Sau cùng, đối với một số trường hợp thuỷ đậu có thể dùng Acyclovir. Acyclovir là một thuốc kháng virus được sử dụng để rút ngắn thời gian của bệnh. Thuốc chỉ hiệu quả nếu được dùng sớm, trong thời gian từ 1 đến 2 ngày khi bắt đầu phát ban thuỷ đậu. Acyclovir thường được chỉ định cho những bệnh nhân có bệnh kèm theo nguy hiểm (ví dụ lupus, đái tháo đường, người cao tuổi, bệnh nhân suy giảm miễn dịch).

5. Các biến chứng có thể xảy ra?

- Thuỷ đậu có thể gây biến chứng. Khi các mụn nước vỡ ra và bị nhiễm trùng có thể gây sẹo xấu, đặc biệt khi bệnh nhân gãi nhiều ở vùng tổn thương.

- Nhiễm trùng da là biến chứng của thuỷ đậu thường gặp nhất ở trẻ em.

- Biến chứng khác thường gặp là tổn thương thần kinh trung ương bao gồm những rối loạn ở tiểu não (rối loạn thất điều tiểu não, chóng mặt, run, rối loạn ngôn ngữ), viêm não (nhức đầu, co giật, rối loạn ý thức), tổn thương thần kinh (liệt thần kinh) và hội chứng Reye (kết hợp tổn thương gan và não khả năng gây tử vong, có thể xảy ra do dùng aspirin ở trẻ em).

- Các biến chứng đặc biệt nặng có thể xảy ra trên bệnh nhân AIDS , lupus, bịnh bạch cầu, và ung thư. Biến chứng còn xảy ra trên những bệnh nhân dùng thuốc ức chế miễn dịch, như các corticoid. Trẻ sơ sinh có mẹ bị thuỷ đậu ở 3 tháng cuối của thai kỳ sẽ chịu những nguy cơ cao của bệnh. Nếu mẹ phát bệnh thuỷ đậu 5 ngày trước hoặc 2 ngày sau khi sanh, tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh có thể lên đến 30%.

6. Thủy đậu có thể phòng ngừa bằng vaccin?

Người đã bị thuỷ đậu sẽ có miễn dịch suốt đời và không bao giờ bị lại. Nhưng nhiều khi về sau, virus có thể bộc phát lên bề mặt trở lại dưới dạng zona (giời leo). Mục tiêu hiện nay của nhiều nước trên thế giới là làm sao tiêm phòng thuỷ đậu cho hầu hết các trẻ em. Chỉ cần tiêm 2 mũi. Mũi đầu tiên tiêm lúc trẻ 1 tuổi và mũi thứ hai (tiêm nhắc lại) lúc 4 tuổi. Đối với người lớn chưa bị thuỷ đậu, có thể tiêm phòng vào bất cứ lúc nào. Phản ứng phụ khi tiêm phòng thuỷ đậu xảy ra không đáng kể. Tất cả trẻ em, trừ những trẻ suy giảm miễn dịch, đều nên được tiêm phòng thuỷ đậu.

BS. ĐỒNG NGỌC KHANH
Tham khảo: Medicine Net

Đọc thêm..

Làm mờ nốt tàn nhang bằng thảo dược

Cà rốt tươi giã nát, ép lấy nước cốt. Buổi tối trước khi đi ngủ, rửa sạch vùng da có tàn nhang, lấy nước ép cà rốt bôi đều lên; chờ cho khô rồi dùng khăn tay tẩm dầu thực vật xát nhẹ lên. Sáng dậy rửa sạch mặt bằng nước ấm.

Vị thuốc sơn dược.

Tàn nhang là một khuyết tật nhỏ ngoài da, liên quan chủ yếu tới sự tăng sinh sắc tố ở lớp đáy và lớp trung bì. Nó thường gặp ở những người có làn da trắng, mỏng, mịn; có tính di truyền. Tuổi càng cao, các nốt tàn nhang càng sẫm màu hơn. Tàn nhang chỉ ảnh hưởng về mặt thẩm mỹ chứ không gây hại sức khỏe.
Nốt tàn nhang thường nổi rõ khi cơ thể gầy yếu và mờ đi khi cơ thể khỏe mạnh. Do đó, để tàn nhang đỡ ảnh hưởng đến mặt thẩm mỹ, vấn đề chủ yếu là phải tăng cường sức khỏe toàn thân. Vì khi cơ thể khỏe mạnh, da hồng hào căng mịn, các nốt tàn nhang sẽ không hiện rõ.

Tàn nhang rất nhạy cảm với ánh nắng mặt trời: Những nốt tàn nhang thường xuất hiện nhiều hơn, sẫm màu hơn – hiện rõ trên mặt da trong những ngày hè nắng gắt. Ngược lại, vào mùa đông ít nắng, tàn nhang thường giảm bớt và có thể lặn đi hoàn toàn. Do đó, để hạn chế tàn nhang, khi ra nắng cần đội mũ rộng vành và mặc áo dài tay, tránh nắng gắt.

Các phương pháp điều trị tàn nhang bằng hóa chất như bôi dung dịch acid trichloracetic, tretinoin… chỉ có thể làm nhạt bớt màu, chứ không thể ngăn chặn sự xuất hiện các nốt tàn nhang mới. Phương pháp đốt điện, dùng tia laser hoặc đốt lạnh bằng ni-tơ lỏng có thể xóa các nốt tàn nhang, nhưng nếu làm không cẩn thận sẽ rất dễ để lại trên da những vết sẹo thâm hoặc sẹo giảm sắc tố, làm giảm thẩm mỹ. Vì vậy, việc sử dụng dược thảo thiên nhiên để chữa trị tàn nhang hiện vẫn là phương pháp được ưa chuộng nhất.
Theo Đông y , nguyên nhân dẫn tới tàn nhang chủ yếu là nhân tố di truyền cộng với tác động của phong tà bên ngoài, khiến hỏa khí bị uất kết, đọng lại trong các đường mạch nhỏ (tiểu mạch lạc) ở bì phu (da thịt) mà thành các nốt tàn nhang. Để chữa trị, Đông y thường dùng những bài thuốc sau:

Thuốc uống trong

Chữa tàn nhang ở người trẻ tuổi

Người trẻ tuổi có nhiều tàn nhang chủ yếu do bị phong tà xâm nhập, khiến hỏa uất, kết đọng lại ở các lạc mạch nhỏ trên bì phu. Các nốt tàn nhang có màu thẫm hơn về mùa hạ và nhạt bớt về mùa đông. Để chữa trị, chủ yếu dùng các bài thuốc có tác dụng tán hỏa và giải độc dưới đây:

Khương hoạt, phòng phong, xuyên khung, hồng hoa mỗi thứ 6 g, sinh địa 12 g, đương quy 8 g, sơn dược (củ mài) 12 g, chi tử (dành dành) 8 g, đông qua nhân (hạt bí đao) 30 g. Sắc nước uống mỗi ngày 1 thang.
Lục đậu y (vỏ đậu xanh), sơn dược, đông qua nhân mỗi thứ 30 g; khương hoạt, phòng phong, bạch phụ tử, xuyên khung, lăng tiêu hoa mỗi thứ 6 g, sinh địa 12 g, hoàng cầm 12 g, sắc nước uống mỗi ngày 1 thang.

Chữa tàn nhang ở người cao tuổi

Người cao tuổi nhiều tàn nhang chủ yếu do thận thủy bị hư tổn. Nốt tàn nhang thường thẫm màu hơn, da khô nháp không tươi, kèm theo các triệu chứng âm hư như hâm hấp sốt về chiều, cảm giác nóng ở lòng bàn chân và bàn tay, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ, lưng đau gối yếu, đầu choáng mắt hoa, miệng khô khát, chất lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi ít, mạch trầm tế (chìm, nhỏ). Để chữa trị, chủ yếu dùng các bài thuốc có tác dụng tư âm, hạ hỏa dưới đây:

Thục địa 15 g, sinh địa 15 g, ngô thù du, đan bì (sao), phục linh, ba kích thiên, cam thảo mỗi thứ 10 g; sơn dược 30 g, thăng ma, bạch phụ tử, tế tân mỗi thứ 3 g, sắc nước uống mỗi ngày một thang.

Thiên môn đông 1.000 g, thục địa hoàng 500 g. Hai thứ đem sấy khô, tán thành bột mịn, trộn với mật ong làm thành viên. Hằng ngày uống 2 lần với rượu loãng hoặc nước ấm vào lúc đói, mỗi lần 15-20 g. Đây là một cổ phương, có tên là “Đông địa mỹ dung cao”. Theo sách Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân, nếu sử dụng lâu ngày thứ cao này, các nốt đen trên da sẽ dần biến mất, da mặt tươi như hoa đào. Tuy nhiên, người tiêu hóa kém, đại tiện lỏng thì không nên dùng.

Thuốc bôi ngoài

Kem cà bát – nước chanh : Cà bát trắng 100 g, chanh 10 quả. Cà bát trắng rửa sạch, thái nhỏ, giã nhuyễn; chanh vắt lấy nước trộn đều với bột cà, tất cả cho vào lọ đậy kín, sau 2 ngày có thể dùng được. Tối trước khi đi ngủ lấy bông thấm dung dịch “kem” bôi vào nơi da bị tàn nhang, bôi liên tục trong nhiều ngày sẽ thấy kiến hiệu. Lưu ý: Trong những ngày bôi thuốc, khi đi nắng cần che kín mặt.

Kem lá mướp – lá sen – mật ong : Lá mướp đắng, lá mướp hương, lá sen lượng bằng nhau, phơi hoặc sấy khô, tán thành bột mịn, thêm lượng mật ong thích hợp vào quấy đều để chế thành một thứ cao lỏng, cho vào lọ nút kín dùng dần. Tối trước khi đi ngủ, dùng thứ “kem” này bôi lên chỗ da bị tàn nhang, bôi liên tục trong nhiều ngày sẽ có kiến hiệu.

Cao bí đao, mật ong : Bí đao 1 quả (khoảng 500 g), rượu trắng 1.500 ml, nước 1.000 ml, mật ong 500 g. Dùng dao tre (hoặc nứa) gọt bỏ vỏ xanh, cắt bí thành miếng nhỏ, cho vào nồi đất, đun cùng với rượu và nước cho đến khi bí chín nhừ. Bỏ bã, lọc lấy nước cốt, cô nhỏ lửa cho đến khi quánh lại thành cao lỏng, thêm mật ong vào khuấy đều, đun tiếp một lát nữa là được. Chờ cao nguội, cho vào lọ gốm, nút kín dùng dần. Tối trước khi đi ngủ lấy cao trộn với lòng trắng trứng gà tươi (theo tỷ lệ 1/1), bôi kín chỗ da bị tàn nhang, xoa nhẹ cho da nóng lên; sáng hôm sau rửa mặt bằng nước ấm, hoặc dùng nước vo gạo rửa mặt càng tốt.

Kem hạt mận, lòng trắng trứng gà : Nhân hạt mận sấy khô, tán thành bột mịn, cho vào lọ nút kín dùng dần. Tối trước khi đi ngủ lấy 8-10 g bột trộn đều với lòng trắng 1 quả trứng gà; rửa sạch mặt và vùng da bị tàn nhang rồi bôi kem lên. Sáng hôm sau, rửa bằng nước vo gạo đã lên men chua, lại bôi kem lên, xoa nhẹ cho đến lúc da hơi nóng. Làm liên tục vài hôm sẽ thấy các nốt tàn nhang nhạt màu dần. Lưu ý: sách xưa viết dùng thuốc này phải kiêng ra gió.

Bột hắc sửu : Hắc sửu (hạt bìm bìm đen) 100 g phơi hoặc sấy khô, tán thành bột mịn. Hàng ngày lấy lòng trắng 1 quả trứng gà tươi, trộn đều với 1 thìa cà phê bột hạt bìm bìm, bôi vào nơi bị tàn nhang liên tục trong nhiều ngày, các nốt tàn nhang sẽ nhạt đi và dần dần biến mất.

Kem phục linh – mật ong : Phục linh phơi hoặc sấy khô, nghiền thành bột thật mịn. Mỗi ngày tối trước khi đi ngủ lấy một ít bột phục linh trộn đều với mật ong bôi lên chỗ da có tàn nhang, xoa nhẹ cho da nóng lên, sáng dậy rửa sạch bằng nước ấm.

Bạch truật ngâm giấm : Bạch truật 200 g, giấm tốt 500 ml. Bạch truật thái thành lát mỏng, cho vào bình ngâm với giấm trong nửa tháng. Muốn nhanh, có thể tán bạch truật thành bột rồi ngâm trong giấm, hằng ngày lắc bình ngâm 1-2 lần, sau 7 ngày có thể dùng được. Tối trước khi đi ngủ dùng bông thấm dung dịch giấm bôi lên chỗ da bị tàn nhang vài ba lần (khô lại bôi tiếp). Bôi liên tục trong nhiều ngày, các nốt tàn nhang sẽ dần dần biến mất.

Ích mẫu thang (nước sắc cỏ ích mẫu): Lấy khoảng 100 g ích mẫu thảo, sắc lấy nước, lọc bỏ bã. Hằng ngày, dùng nước này rửa mặt vào sáng sớm và buổi tối trước khi đi ngủ. Dùng lâu ngày da mặt sẽ sáng đẹp, các vết tàn nhang và vết nám dần dần biến hết.

(Theo Sức Khỏe & Đời Sống )

Làm mờ nốt tàn nhang bằng thảo dược

Làm mờ nốt tàn nhang bằng thảo dược

Cà rốt tươi giã nát, ép lấy nước cốt. Buổi tối trước khi đi ngủ, rửa sạch vùng da có tàn nhang, lấy nước ép cà rốt bôi đều lên; chờ cho khô rồi dùng khăn tay tẩm dầu thực vật xát nhẹ lên. Sáng dậy rửa sạch mặt bằng nước ấm.

Vị thuốc sơn dược.

Tàn nhang là một khuyết tật nhỏ ngoài da, liên quan chủ yếu tới sự tăng sinh sắc tố ở lớp đáy và lớp trung bì. Nó thường gặp ở những người có làn da trắng, mỏng, mịn; có tính di truyền. Tuổi càng cao, các nốt tàn nhang càng sẫm màu hơn. Tàn nhang chỉ ảnh hưởng về mặt thẩm mỹ chứ không gây hại sức khỏe.
Nốt tàn nhang thường nổi rõ khi cơ thể gầy yếu và mờ đi khi cơ thể khỏe mạnh. Do đó, để tàn nhang đỡ ảnh hưởng đến mặt thẩm mỹ, vấn đề chủ yếu là phải tăng cường sức khỏe toàn thân. Vì khi cơ thể khỏe mạnh, da hồng hào căng mịn, các nốt tàn nhang sẽ không hiện rõ.

Tàn nhang rất nhạy cảm với ánh nắng mặt trời: Những nốt tàn nhang thường xuất hiện nhiều hơn, sẫm màu hơn – hiện rõ trên mặt da trong những ngày hè nắng gắt. Ngược lại, vào mùa đông ít nắng, tàn nhang thường giảm bớt và có thể lặn đi hoàn toàn. Do đó, để hạn chế tàn nhang, khi ra nắng cần đội mũ rộng vành và mặc áo dài tay, tránh nắng gắt.

Các phương pháp điều trị tàn nhang bằng hóa chất như bôi dung dịch acid trichloracetic, tretinoin… chỉ có thể làm nhạt bớt màu, chứ không thể ngăn chặn sự xuất hiện các nốt tàn nhang mới. Phương pháp đốt điện, dùng tia laser hoặc đốt lạnh bằng ni-tơ lỏng có thể xóa các nốt tàn nhang, nhưng nếu làm không cẩn thận sẽ rất dễ để lại trên da những vết sẹo thâm hoặc sẹo giảm sắc tố, làm giảm thẩm mỹ. Vì vậy, việc sử dụng dược thảo thiên nhiên để chữa trị tàn nhang hiện vẫn là phương pháp được ưa chuộng nhất.
Theo Đông y , nguyên nhân dẫn tới tàn nhang chủ yếu là nhân tố di truyền cộng với tác động của phong tà bên ngoài, khiến hỏa khí bị uất kết, đọng lại trong các đường mạch nhỏ (tiểu mạch lạc) ở bì phu (da thịt) mà thành các nốt tàn nhang. Để chữa trị, Đông y thường dùng những bài thuốc sau:

Thuốc uống trong

Chữa tàn nhang ở người trẻ tuổi

Người trẻ tuổi có nhiều tàn nhang chủ yếu do bị phong tà xâm nhập, khiến hỏa uất, kết đọng lại ở các lạc mạch nhỏ trên bì phu. Các nốt tàn nhang có màu thẫm hơn về mùa hạ và nhạt bớt về mùa đông. Để chữa trị, chủ yếu dùng các bài thuốc có tác dụng tán hỏa và giải độc dưới đây:

Khương hoạt, phòng phong, xuyên khung, hồng hoa mỗi thứ 6 g, sinh địa 12 g, đương quy 8 g, sơn dược (củ mài) 12 g, chi tử (dành dành) 8 g, đông qua nhân (hạt bí đao) 30 g. Sắc nước uống mỗi ngày 1 thang.
Lục đậu y (vỏ đậu xanh), sơn dược, đông qua nhân mỗi thứ 30 g; khương hoạt, phòng phong, bạch phụ tử, xuyên khung, lăng tiêu hoa mỗi thứ 6 g, sinh địa 12 g, hoàng cầm 12 g, sắc nước uống mỗi ngày 1 thang.

Chữa tàn nhang ở người cao tuổi

Người cao tuổi nhiều tàn nhang chủ yếu do thận thủy bị hư tổn. Nốt tàn nhang thường thẫm màu hơn, da khô nháp không tươi, kèm theo các triệu chứng âm hư như hâm hấp sốt về chiều, cảm giác nóng ở lòng bàn chân và bàn tay, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ, lưng đau gối yếu, đầu choáng mắt hoa, miệng khô khát, chất lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi ít, mạch trầm tế (chìm, nhỏ). Để chữa trị, chủ yếu dùng các bài thuốc có tác dụng tư âm, hạ hỏa dưới đây:

Thục địa 15 g, sinh địa 15 g, ngô thù du, đan bì (sao), phục linh, ba kích thiên, cam thảo mỗi thứ 10 g; sơn dược 30 g, thăng ma, bạch phụ tử, tế tân mỗi thứ 3 g, sắc nước uống mỗi ngày một thang.

Thiên môn đông 1.000 g, thục địa hoàng 500 g. Hai thứ đem sấy khô, tán thành bột mịn, trộn với mật ong làm thành viên. Hằng ngày uống 2 lần với rượu loãng hoặc nước ấm vào lúc đói, mỗi lần 15-20 g. Đây là một cổ phương, có tên là “Đông địa mỹ dung cao”. Theo sách Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân, nếu sử dụng lâu ngày thứ cao này, các nốt đen trên da sẽ dần biến mất, da mặt tươi như hoa đào. Tuy nhiên, người tiêu hóa kém, đại tiện lỏng thì không nên dùng.

Thuốc bôi ngoài

Kem cà bát – nước chanh : Cà bát trắng 100 g, chanh 10 quả. Cà bát trắng rửa sạch, thái nhỏ, giã nhuyễn; chanh vắt lấy nước trộn đều với bột cà, tất cả cho vào lọ đậy kín, sau 2 ngày có thể dùng được. Tối trước khi đi ngủ lấy bông thấm dung dịch “kem” bôi vào nơi da bị tàn nhang, bôi liên tục trong nhiều ngày sẽ thấy kiến hiệu. Lưu ý: Trong những ngày bôi thuốc, khi đi nắng cần che kín mặt.

Kem lá mướp – lá sen – mật ong : Lá mướp đắng, lá mướp hương, lá sen lượng bằng nhau, phơi hoặc sấy khô, tán thành bột mịn, thêm lượng mật ong thích hợp vào quấy đều để chế thành một thứ cao lỏng, cho vào lọ nút kín dùng dần. Tối trước khi đi ngủ, dùng thứ “kem” này bôi lên chỗ da bị tàn nhang, bôi liên tục trong nhiều ngày sẽ có kiến hiệu.

Cao bí đao, mật ong : Bí đao 1 quả (khoảng 500 g), rượu trắng 1.500 ml, nước 1.000 ml, mật ong 500 g. Dùng dao tre (hoặc nứa) gọt bỏ vỏ xanh, cắt bí thành miếng nhỏ, cho vào nồi đất, đun cùng với rượu và nước cho đến khi bí chín nhừ. Bỏ bã, lọc lấy nước cốt, cô nhỏ lửa cho đến khi quánh lại thành cao lỏng, thêm mật ong vào khuấy đều, đun tiếp một lát nữa là được. Chờ cao nguội, cho vào lọ gốm, nút kín dùng dần. Tối trước khi đi ngủ lấy cao trộn với lòng trắng trứng gà tươi (theo tỷ lệ 1/1), bôi kín chỗ da bị tàn nhang, xoa nhẹ cho da nóng lên; sáng hôm sau rửa mặt bằng nước ấm, hoặc dùng nước vo gạo rửa mặt càng tốt.

Kem hạt mận, lòng trắng trứng gà : Nhân hạt mận sấy khô, tán thành bột mịn, cho vào lọ nút kín dùng dần. Tối trước khi đi ngủ lấy 8-10 g bột trộn đều với lòng trắng 1 quả trứng gà; rửa sạch mặt và vùng da bị tàn nhang rồi bôi kem lên. Sáng hôm sau, rửa bằng nước vo gạo đã lên men chua, lại bôi kem lên, xoa nhẹ cho đến lúc da hơi nóng. Làm liên tục vài hôm sẽ thấy các nốt tàn nhang nhạt màu dần. Lưu ý: sách xưa viết dùng thuốc này phải kiêng ra gió.

Bột hắc sửu : Hắc sửu (hạt bìm bìm đen) 100 g phơi hoặc sấy khô, tán thành bột mịn. Hàng ngày lấy lòng trắng 1 quả trứng gà tươi, trộn đều với 1 thìa cà phê bột hạt bìm bìm, bôi vào nơi bị tàn nhang liên tục trong nhiều ngày, các nốt tàn nhang sẽ nhạt đi và dần dần biến mất.

Kem phục linh – mật ong : Phục linh phơi hoặc sấy khô, nghiền thành bột thật mịn. Mỗi ngày tối trước khi đi ngủ lấy một ít bột phục linh trộn đều với mật ong bôi lên chỗ da có tàn nhang, xoa nhẹ cho da nóng lên, sáng dậy rửa sạch bằng nước ấm.

Bạch truật ngâm giấm : Bạch truật 200 g, giấm tốt 500 ml. Bạch truật thái thành lát mỏng, cho vào bình ngâm với giấm trong nửa tháng. Muốn nhanh, có thể tán bạch truật thành bột rồi ngâm trong giấm, hằng ngày lắc bình ngâm 1-2 lần, sau 7 ngày có thể dùng được. Tối trước khi đi ngủ dùng bông thấm dung dịch giấm bôi lên chỗ da bị tàn nhang vài ba lần (khô lại bôi tiếp). Bôi liên tục trong nhiều ngày, các nốt tàn nhang sẽ dần dần biến mất.

Ích mẫu thang (nước sắc cỏ ích mẫu): Lấy khoảng 100 g ích mẫu thảo, sắc lấy nước, lọc bỏ bã. Hằng ngày, dùng nước này rửa mặt vào sáng sớm và buổi tối trước khi đi ngủ. Dùng lâu ngày da mặt sẽ sáng đẹp, các vết tàn nhang và vết nám dần dần biến hết.

(Theo Sức Khỏe & Đời Sống )

Đọc thêm..

Bệnh da mùa nóng

Mùa nóng trẻ dễ bị hăm, nhọt, nấm do đổ mồ hôi nhiều vì trẻ bị ủ ấm và mặc tã giấy lâu. Có trẻ nhập viện trong tình trạng nhiễm trùng máuTrong những ngày gần đây, nhiệt độ cao nhất trong ngày dao động từ 35 o C – 37 o C. Thời tiết nóng nực làm cho cả trè em lẫn người lớn đều rất dễ mắc các bệnh về da, nhất là nhiễm trùng da.

Trẻ nhiễm trùng da do bị ủ ấm

Tại Bệnh viện (BV) Nhi Đồng 2 TP.HCM, các bác sĩ thường gặp nhất là trẻ bị nhọt và hăm, lở các kẽ da do thời tiết nóng. Bác sĩ Nguyễn Thanh Hương, Trưởng Khoa Nội Tổng hợp, cho biết mặc dù trời nóng, nhưng còn rất nhiều bà mẹ khi thấy con ho, sổ mũi là lại mặc cho con áo trong, áo ngoài, vớ, nón đầy đủ. Trong khi đó, các bé ra mồ hôi nhiều sẽ ngứa ngáy, gãi nhiều, thêm vào đó da trẻ mỏng, mẫn cảm nên dễ bị đỏ, ngứa nhưng các bé chưa tự vệ sinh cá nhân được nên rất dễ nhiễm trùng da. Đầu tiên chỉ là những mụn rôm sảy nhỏ, vết xước trên da hoặc đôi khi chỉ là nốt muỗi đốt nhưng khi bội nhiễm sẽ trở thành nhọt, cụm nhọt nhiều nhất là ở vùng đầu, mặt, cổ.

Các bà mẹ không để ý hoặc cho rằng không sao, nhưng vài ba ngày sau, thấy bé đỏ da toàn thân kèm sốt, sưng hết mặt và toàn thân, thậm chí khi các bà mẹ phát hiện thì các mụn đỏ đã trở thành những mụn mủ sưng tấy ở xung quanh, nhập viện trong tình trạng nhiễm trùng máu đòi hỏi điều trị khá tốn kém, thời gian chăm sóc rất lâu. Đã có những bệnh nhân bị đa nhọt, viêm mô tế bào ăn sâu vào trong da.

Còn đối với nhũ nhi, các bà mẹ lại hay có thói quen mang tã giấy cho tiện lợi nên bé dễ bị hăm, lở vùng bẹn, bìu, kèm nhiều mụn ở mông, thêm trời nóng kết hợp với phân và nước tiểu sẽ làm da bé bị nhiễm trùng. Trường hợp các bé bị thủy đậu (trái rạ), nhiều bà mẹ còn thói quen cử nước cử gió, bắt bé mặc đồ quá kín nên các nốt phỏng bị bội nhiễm mưng mủ và làm cho bệnh càng nặng hơn… Bác sĩ Nguyễn Thanh Hương khuyên các bà mẹ nên nhớ  vệ sinh da thường xuyên, nhất là sau khi bé tiêu tiểu; không dùng những loại xà bông có độ tẩy cao; trẻ cần được giữ vệ sinh sạch sẽ, thông thoáng, tắm rửa và thay quần áo. Chú ý lau thật khô, thay tã thường xuyên và không quên thoa phấn cho trẻ.

Đặc biệt khi da bé bị bệnh cần phải tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi sử dụng một loại thuốc bất kỳ nào đó bôi lên da trẻ bởi vì nếu sử dụng không đúng chỉ định, bệnh không bớt mà có thể nặng hơn hoặc có khi làm trẻ bị ngộ độc.

Người lớn dễ bị nấm da và mụn

Còn ở người lớn, theo bác sĩ Trần Ngọc Ánh, Khoa Khám bệnh - BV Da liễu, bệnh da liễu thường gặp vào mùa nóng là nấm (lác đồng tiền), đặc biệt là nấm kẽ tay, kẽ chân ở những người làm việc trong môi trường ẩm, thường xuyên tiếp xúc với nước. Những người mang giày kín suốt ngày, không thay vớ thường xuyên cũng tạo điều kiện cho bệnh nấm chân xuất hiện. Triệu chứng thường thấy là ở bàn chân hoặc gót chân có những mảng da màu đỏ, vết nứt hay những mụn nước. Nếu bệnh nhân phát hiện và điều trị sớm, bệnh sẽ không ảnh hưởng nhiều nhưng nếu tiếp tục tiếp xúc với không khí ẩm có thể bị bội nhiễm làm bàn chân sưng tấy, có mụn mủ, bóng mủ và kèm theo sốt.

Bác sĩ Nguyễn Văn Út, Phòng Khám Da liễu - BV Nguyễn Tri Phương, cũng ghi nhận bệnh nấm kẽ chân thường gặp ở nam, viêm kẽ thường gặp ở các kẽ ngón, đặc biệt kẽ ngón 4 và 5. Tổn thương trên có thể bị bội nhiễm vi khuẩn có mụn mủ, bóng mủ, sưng tấy bàn chân, nổi hạch háng và sốt. Còn nấm bẹn cũng xuất hiện ở nam nhiều nhưng tập trung ở những người thường xuyên  đổ mồ hôi nhiều hay mặc đồ ẩm ướt. Sang thương thường ở nếp gấp hai bên đùi. Từ một bên bẹn, nấm lan sang bên kia lên mông, thắt lưng và bệnh nhân thấy ngứa khi ẩm ướt. Còn nấm thân là những đốm hồng ban, có mụn nước ở rìa, gây ngứa nhiều khi ra nắng hoặc khi ra mồ hôi. Đối với những người đang có mụn, thời tiết nóng cũng làm tăng nguy cơ nhiễm trùng nặng hơn nếu giữ vệ sinh kém.

Không nên tự ý thoa thuốc

Những bệnh ngoài da không nặng nhưng diễn tiến nhanh trong môi trường ẩm ướt và bội nhiễm nặng do thiếu vệ sinh. Bác sĩ Trần Ngọc Ánh khuyên mọi người cần giữ cơ thể khô, thoáng vào mùa nóng, tránh tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển trong môi trường ẩm. Nấm được điều trị chủ yếu bằng thuốc, bệnh thường kéo dài đòi hỏi người bệnh cần kiên nhẫn. Bác sĩ Nguyễn Văn Út cũng khuyến cáo khi phát hiện những đốm tổn thương hay những vết ngứa trên da cần đi bác sĩ ngay, không nên gãi sẽ làm vết loét rộng hơn. Khi đó, việc điều trị sẽ kéo dài, có khi hàng tháng trời, chưa kể khi lành vết thương có thể  để lại sẹo. Đặc biệt, những người thường tiếp xúc với ánh nắng mùa nóng thì vết thương càng dễ bị thâm khi lành. Ngoài ra, nên tránh dùng thức ăn kích thích, cay  nóng. khi thấy ngứa, nổi mụn thì không nên tự ý mua thuốc để uống và bôi theo kinh nghiệm bản thân hoặc do bạn bè, người thân mách bảo.

Theo Người lao động

Bệnh da mùa nóng

Bệnh da mùa nóng

Mùa nóng trẻ dễ bị hăm, nhọt, nấm do đổ mồ hôi nhiều vì trẻ bị ủ ấm và mặc tã giấy lâu. Có trẻ nhập viện trong tình trạng nhiễm trùng máuTrong những ngày gần đây, nhiệt độ cao nhất trong ngày dao động từ 35 o C – 37 o C. Thời tiết nóng nực làm cho cả trè em lẫn người lớn đều rất dễ mắc các bệnh về da, nhất là nhiễm trùng da.

Trẻ nhiễm trùng da do bị ủ ấm

Tại Bệnh viện (BV) Nhi Đồng 2 TP.HCM, các bác sĩ thường gặp nhất là trẻ bị nhọt và hăm, lở các kẽ da do thời tiết nóng. Bác sĩ Nguyễn Thanh Hương, Trưởng Khoa Nội Tổng hợp, cho biết mặc dù trời nóng, nhưng còn rất nhiều bà mẹ khi thấy con ho, sổ mũi là lại mặc cho con áo trong, áo ngoài, vớ, nón đầy đủ. Trong khi đó, các bé ra mồ hôi nhiều sẽ ngứa ngáy, gãi nhiều, thêm vào đó da trẻ mỏng, mẫn cảm nên dễ bị đỏ, ngứa nhưng các bé chưa tự vệ sinh cá nhân được nên rất dễ nhiễm trùng da. Đầu tiên chỉ là những mụn rôm sảy nhỏ, vết xước trên da hoặc đôi khi chỉ là nốt muỗi đốt nhưng khi bội nhiễm sẽ trở thành nhọt, cụm nhọt nhiều nhất là ở vùng đầu, mặt, cổ.

Các bà mẹ không để ý hoặc cho rằng không sao, nhưng vài ba ngày sau, thấy bé đỏ da toàn thân kèm sốt, sưng hết mặt và toàn thân, thậm chí khi các bà mẹ phát hiện thì các mụn đỏ đã trở thành những mụn mủ sưng tấy ở xung quanh, nhập viện trong tình trạng nhiễm trùng máu đòi hỏi điều trị khá tốn kém, thời gian chăm sóc rất lâu. Đã có những bệnh nhân bị đa nhọt, viêm mô tế bào ăn sâu vào trong da.

Còn đối với nhũ nhi, các bà mẹ lại hay có thói quen mang tã giấy cho tiện lợi nên bé dễ bị hăm, lở vùng bẹn, bìu, kèm nhiều mụn ở mông, thêm trời nóng kết hợp với phân và nước tiểu sẽ làm da bé bị nhiễm trùng. Trường hợp các bé bị thủy đậu (trái rạ), nhiều bà mẹ còn thói quen cử nước cử gió, bắt bé mặc đồ quá kín nên các nốt phỏng bị bội nhiễm mưng mủ và làm cho bệnh càng nặng hơn… Bác sĩ Nguyễn Thanh Hương khuyên các bà mẹ nên nhớ  vệ sinh da thường xuyên, nhất là sau khi bé tiêu tiểu; không dùng những loại xà bông có độ tẩy cao; trẻ cần được giữ vệ sinh sạch sẽ, thông thoáng, tắm rửa và thay quần áo. Chú ý lau thật khô, thay tã thường xuyên và không quên thoa phấn cho trẻ.

Đặc biệt khi da bé bị bệnh cần phải tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi sử dụng một loại thuốc bất kỳ nào đó bôi lên da trẻ bởi vì nếu sử dụng không đúng chỉ định, bệnh không bớt mà có thể nặng hơn hoặc có khi làm trẻ bị ngộ độc.

Người lớn dễ bị nấm da và mụn

Còn ở người lớn, theo bác sĩ Trần Ngọc Ánh, Khoa Khám bệnh - BV Da liễu, bệnh da liễu thường gặp vào mùa nóng là nấm (lác đồng tiền), đặc biệt là nấm kẽ tay, kẽ chân ở những người làm việc trong môi trường ẩm, thường xuyên tiếp xúc với nước. Những người mang giày kín suốt ngày, không thay vớ thường xuyên cũng tạo điều kiện cho bệnh nấm chân xuất hiện. Triệu chứng thường thấy là ở bàn chân hoặc gót chân có những mảng da màu đỏ, vết nứt hay những mụn nước. Nếu bệnh nhân phát hiện và điều trị sớm, bệnh sẽ không ảnh hưởng nhiều nhưng nếu tiếp tục tiếp xúc với không khí ẩm có thể bị bội nhiễm làm bàn chân sưng tấy, có mụn mủ, bóng mủ và kèm theo sốt.

Bác sĩ Nguyễn Văn Út, Phòng Khám Da liễu - BV Nguyễn Tri Phương, cũng ghi nhận bệnh nấm kẽ chân thường gặp ở nam, viêm kẽ thường gặp ở các kẽ ngón, đặc biệt kẽ ngón 4 và 5. Tổn thương trên có thể bị bội nhiễm vi khuẩn có mụn mủ, bóng mủ, sưng tấy bàn chân, nổi hạch háng và sốt. Còn nấm bẹn cũng xuất hiện ở nam nhiều nhưng tập trung ở những người thường xuyên  đổ mồ hôi nhiều hay mặc đồ ẩm ướt. Sang thương thường ở nếp gấp hai bên đùi. Từ một bên bẹn, nấm lan sang bên kia lên mông, thắt lưng và bệnh nhân thấy ngứa khi ẩm ướt. Còn nấm thân là những đốm hồng ban, có mụn nước ở rìa, gây ngứa nhiều khi ra nắng hoặc khi ra mồ hôi. Đối với những người đang có mụn, thời tiết nóng cũng làm tăng nguy cơ nhiễm trùng nặng hơn nếu giữ vệ sinh kém.

Không nên tự ý thoa thuốc

Những bệnh ngoài da không nặng nhưng diễn tiến nhanh trong môi trường ẩm ướt và bội nhiễm nặng do thiếu vệ sinh. Bác sĩ Trần Ngọc Ánh khuyên mọi người cần giữ cơ thể khô, thoáng vào mùa nóng, tránh tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển trong môi trường ẩm. Nấm được điều trị chủ yếu bằng thuốc, bệnh thường kéo dài đòi hỏi người bệnh cần kiên nhẫn. Bác sĩ Nguyễn Văn Út cũng khuyến cáo khi phát hiện những đốm tổn thương hay những vết ngứa trên da cần đi bác sĩ ngay, không nên gãi sẽ làm vết loét rộng hơn. Khi đó, việc điều trị sẽ kéo dài, có khi hàng tháng trời, chưa kể khi lành vết thương có thể  để lại sẹo. Đặc biệt, những người thường tiếp xúc với ánh nắng mùa nóng thì vết thương càng dễ bị thâm khi lành. Ngoài ra, nên tránh dùng thức ăn kích thích, cay  nóng. khi thấy ngứa, nổi mụn thì không nên tự ý mua thuốc để uống và bôi theo kinh nghiệm bản thân hoặc do bạn bè, người thân mách bảo.

Theo Người lao động

Đọc thêm..

Phòng và điều trị lang ben

Thưa bác sĩ, năm nay em 15 tuổi, em bị lang ben khoảng gần 1 năm. Lúc đầu thấy bình thuờng, có thoa thuốc nizoral nhưng không hêt, bây giờ nó loang rộng ra. Xin bác sĩ cho biết em phải làm sao? Khoảng bao lâu thì mới hết? Xin cảm ơn!

Trả lời:

Lang ben là một bệnh ngoài da phổ biến ở vùng nhiệt đới nóng ẩm; gặp chủ yếu ở người trẻ. Điều kiện thuận lợi để phát bệnh là làn da nóng ẩm do khí hậu, hoạt động thể lực, mặc quần áo bít kín, tiết nhiều mồ hôi nhờn. Bệnh Cushing (một loại bệnh nội tiết), sự suy giảm miễn dịch, suy dinh dưỡng cũng là những yếu tố làm bệnh dễ phát sinh.

Tổn thương da thường là các dát giảm sắc tố (trắng hơn da bình thường), đôi khi là các dát tăng sắc tố (sậm hơn da bình thường) hoặc dát hồng ban (vết hồng đỏ). Bề mặt các thương tổn có vảy mịn như phấn. Nếu dùng bìa cứng hoặc dao cùn cạo thì vảy mịn tróc ra rõ hơn (dấu hiệu vỏ bào).

Dát hình tròn hay hình bầu dục, kích thước từ nhỏ li ti đến vài centimét, có thể kết hợp lại thành những đám lớn hơn có viền ngoằn ngoèo như bản đồ. Vị trí thương tổn thường là những vùng da bị che kín, tiết nhiều mồ hôi nhờn như giữa lưng, giữa ngực, mạn sườn, bụng, mặt trong cánh tay, đùi, vùng mặt (trước tai, hàm dưới).

Lang ben thường chỉ gây cảm giác châm chích khi nóng nực, ngứa ít hoặc không ngứa. Do đó, người bệnh ít khi chữa trị sớm, nhất là khi tổn thương ở vùng da khó nhìn thấy (vùng lưng). Nếu không ngứa, thương tổn chỉ gây mất thẩm mỹ nên bệnh nhân thường không chữa sớm mà để cho lang ben lan rộng, trở nên khó trị và có thể là nguồn lây cho người khác. Bệnh rất hay tái phát, nhất là khi không biết cách phòng ngừa và điều trị đúng.

Nhiều bệnh cũng có thương tổn tương tự như lang ben. Do đó, bệnh nhân cần đến khám ở bác sĩ chuyên khoa để được chẩn đoán chính xác. Thường bác sĩ chỉ cần khám lâm sàng là đủ. Một số trường hợp phải làm thêm xét nghiệm tìm vi nấm.

Để phòng và trị lang ben, loại bỏ điều kiện thuận lợi cho vi nấm gây bệnh là vấn đề quan trọng nhất. Nên mặc đồ thoáng, nhất là vào mùa nóng; tắm rửa, thay đồ hằng ngày. Không sử dụng chung đồ dùng cá nhân như khăn lau, quần áo… Quần áo phải phơi nắng cho khô. Trong lúc đang bị bệnh cần là trước khi mặc.

Khi bệnh mới phát, tổn thương ít thì chỉ cần dùng thuốc bôi da dạng nước (ASA, Antimycose, BSI), dạng kem (các azole) hay xịt, ủ. Nên bôi cả vùng da xung quanh tổn thương, bôi 1-2 lần/ngày trong 1-3 tuần. Khi tổn thương lành thì tiếp tục bôi thuốc thêm một thời gian nữa (khoảng 1 tuần) để tránh tái phát.

Thuốc dùng toàn thân gồm Ketoconazole, Itraconazole…, dùng trong trường hợp tổn thương lan rộng ở nhiều vị trí. Đôi khi cần dùng phối hợp cả thuốc bôi ngoài da và thuốc uống.

Lưu ý: Thuốc dùng tại chỗ có thể gây kích thích da (ngứa, rát, nổi mẩn…), mức độ nhiều hay ít tùy thuộc vào từng loại và từng bệnh nhân. Thuốc uống có thể gây rối loạn tiêu hóa , dị ứng; gây độc gan, độc thận, tương tác với thuốc khác… Không nên dùng cho phụ nữ có thai, đang cho con bú…

Em nên đi khám chuyên da liễu để được chẩn đoán và kê đơn thuốc điều trị nhé!

(Thông tin tư vấn sau đây chỉ mang tính tham khảo – không tự ý chữa bệnh theo thông tin này)

Theo “Từ điển Y Dược trực tuyến”

Phòng và điều trị lang ben

Phòng và điều trị lang ben

Thưa bác sĩ, năm nay em 15 tuổi, em bị lang ben khoảng gần 1 năm. Lúc đầu thấy bình thuờng, có thoa thuốc nizoral nhưng không hêt, bây giờ nó loang rộng ra. Xin bác sĩ cho biết em phải làm sao? Khoảng bao lâu thì mới hết? Xin cảm ơn!

Trả lời:

Lang ben là một bệnh ngoài da phổ biến ở vùng nhiệt đới nóng ẩm; gặp chủ yếu ở người trẻ. Điều kiện thuận lợi để phát bệnh là làn da nóng ẩm do khí hậu, hoạt động thể lực, mặc quần áo bít kín, tiết nhiều mồ hôi nhờn. Bệnh Cushing (một loại bệnh nội tiết), sự suy giảm miễn dịch, suy dinh dưỡng cũng là những yếu tố làm bệnh dễ phát sinh.

Tổn thương da thường là các dát giảm sắc tố (trắng hơn da bình thường), đôi khi là các dát tăng sắc tố (sậm hơn da bình thường) hoặc dát hồng ban (vết hồng đỏ). Bề mặt các thương tổn có vảy mịn như phấn. Nếu dùng bìa cứng hoặc dao cùn cạo thì vảy mịn tróc ra rõ hơn (dấu hiệu vỏ bào).

Dát hình tròn hay hình bầu dục, kích thước từ nhỏ li ti đến vài centimét, có thể kết hợp lại thành những đám lớn hơn có viền ngoằn ngoèo như bản đồ. Vị trí thương tổn thường là những vùng da bị che kín, tiết nhiều mồ hôi nhờn như giữa lưng, giữa ngực, mạn sườn, bụng, mặt trong cánh tay, đùi, vùng mặt (trước tai, hàm dưới).

Lang ben thường chỉ gây cảm giác châm chích khi nóng nực, ngứa ít hoặc không ngứa. Do đó, người bệnh ít khi chữa trị sớm, nhất là khi tổn thương ở vùng da khó nhìn thấy (vùng lưng). Nếu không ngứa, thương tổn chỉ gây mất thẩm mỹ nên bệnh nhân thường không chữa sớm mà để cho lang ben lan rộng, trở nên khó trị và có thể là nguồn lây cho người khác. Bệnh rất hay tái phát, nhất là khi không biết cách phòng ngừa và điều trị đúng.

Nhiều bệnh cũng có thương tổn tương tự như lang ben. Do đó, bệnh nhân cần đến khám ở bác sĩ chuyên khoa để được chẩn đoán chính xác. Thường bác sĩ chỉ cần khám lâm sàng là đủ. Một số trường hợp phải làm thêm xét nghiệm tìm vi nấm.

Để phòng và trị lang ben, loại bỏ điều kiện thuận lợi cho vi nấm gây bệnh là vấn đề quan trọng nhất. Nên mặc đồ thoáng, nhất là vào mùa nóng; tắm rửa, thay đồ hằng ngày. Không sử dụng chung đồ dùng cá nhân như khăn lau, quần áo… Quần áo phải phơi nắng cho khô. Trong lúc đang bị bệnh cần là trước khi mặc.

Khi bệnh mới phát, tổn thương ít thì chỉ cần dùng thuốc bôi da dạng nước (ASA, Antimycose, BSI), dạng kem (các azole) hay xịt, ủ. Nên bôi cả vùng da xung quanh tổn thương, bôi 1-2 lần/ngày trong 1-3 tuần. Khi tổn thương lành thì tiếp tục bôi thuốc thêm một thời gian nữa (khoảng 1 tuần) để tránh tái phát.

Thuốc dùng toàn thân gồm Ketoconazole, Itraconazole…, dùng trong trường hợp tổn thương lan rộng ở nhiều vị trí. Đôi khi cần dùng phối hợp cả thuốc bôi ngoài da và thuốc uống.

Lưu ý: Thuốc dùng tại chỗ có thể gây kích thích da (ngứa, rát, nổi mẩn…), mức độ nhiều hay ít tùy thuộc vào từng loại và từng bệnh nhân. Thuốc uống có thể gây rối loạn tiêu hóa , dị ứng; gây độc gan, độc thận, tương tác với thuốc khác… Không nên dùng cho phụ nữ có thai, đang cho con bú…

Em nên đi khám chuyên da liễu để được chẩn đoán và kê đơn thuốc điều trị nhé!

(Thông tin tư vấn sau đây chỉ mang tính tham khảo – không tự ý chữa bệnh theo thông tin này)

Theo “Từ điển Y Dược trực tuyến”

Đọc thêm..

Lão hóa da và biện pháp phòng ngừa

Thực tế, da là phần cơ thể tiếp xúc trực tiếp với môi trường. Vì vậy, da cũng là nơi chịu tác động đầu tiên của các yếu tố bên ngoài như: gió, bụi, ánh nắng mặt trời, tia X, tia phóng xạ… các yếu tố này kích thích cơ thể sản sinh ra các chất độc hại làm cho da bị sạm, khô, teo và dần xuất hiện các nếp nhăn và các đốm nâu đen.

Nguyên nhân và dấu hiệu lão hóa da

Kết quả từ nhiều cuộc nghiên cứu cho biết, có đến 90% nguyên nhân của lão hóa da là do ánh nắng mặt trời và chỉ có 10% là do di truyền. Về cơ bản, lão hóa da được hình thành từ 2 nhóm nguyên nhân sau:

Nhóm nguyên nhân nội sinh (lão hóa da nội sinh): là hiện tượng da già đi theo thời gian. Càng lớn tuổi các sợi collagen sẽ mất dần, các sợi đàn hồi (elastin) thượng bì bị teo mỏng đi, quá trình sản sinh tế bào bị giảm xuống. Da trở nên mỏng, mất tính đàn hồi, chùng nhão và nếp nhăn sâu xuất hiện.

Nhóm nguyên nhân ngoại sinh (lão hóa da ngoại sinh): do tác động của những yếu tố bên ngoài như: ánh nắng mặt trời, ô nhiễm môi trường, hóa chất, khói thuốc … Da là phần cơ thể tiếp xúc trực tiếp với môi trường và chịu tác động đầu tiên của các yếu tố bên ngoài: gió, bụi, ánh nắng mặt trời, tia X, tia phóng xạ… Dưới những tác nhân này, các sợi collagen và elastin bị thoái hóa, bề dày của da thay đổi, tế bào hắc tố ở thượng bì giảm, xuất hiện nhiều mạch máu nhỏ. Da có màu vàng sậm, nhiều nếp nhăn nhỏ, đồng thời những vùng da phơi bày ra ngoài ánh nắng như: mặt, vùng ngoài cánh tay, bàn tay sẽ có sự tăng giảm sắc tố. Đây là những dấu hiệu cho biết làn da đang “xuống cấp”. Sự xuống cấp này báo hiệu tình trạng lão hóa sắp sửa tấn công vào làn da. Tuy nhiên, những thay đổi trên da trong quá trình lão hóa rất đa dạng và ở mỗi độ tuổi khác nhau sẽ có những dấu hiệu lão hóa đặc trưng. Không chỉ là sự rối loạn sắc tố da điển hình như sự xuất hiện của những bướu lành trên da (nốt ruồi son, đồi mồi, những đốm nâu, đen hay xám, sần sùi, bong vảy…), mà còn là những biểu hiện rõ ràng, cụ thể ở từng độ tuổi.

Độ tuổi lão hóa da và biện pháp phòng ngừa

Giai đoạn và độ tuổi lão hóa thường không giống nhau với mỗi người. Làn da có thể có nguy cơ bị lão hóa bất cứ lúc nào nếu không được chăm sóc hợp lý. Ở một số người, đặc biệt, những người tiếp xúc nhiều với ánh nắng và da không được bảo vệ, làn da có thể bắt đầu lão hóa ngay từ năm 20 tuổi trở đi, nhưng những dấu hiệu này chưa bộc lộ rõ rệt và thường khó nhận biết.

Tuy nhiên theo thống kê, hiện nay tình trạng lão hóa da thường xuất hiện nhiều nhất ở độ tuổi 30 – 35. Nguyên nhân tình trạng lão hóa da ở phụ nữ lứa tuổi này là do sự mất cân bằng của một số hormone, khiến khả năng tự phục hồi của cơ thể bị suy yếu, lượng tế bào mỡ dưới da cũng như các sợi đàn hồi giảm đi làm làn da trở nên mỏng, khô, các cơ dần dần bị nhão, chảy xệ. Các tế bào da ở người trưởng thành ngày càng kém phân chia, nên da dễ bị khô, dễ bị bầm, tụ máu, các chức năng của da cũng giảm sút rõ rệt. Đây là thời điểm sức đề kháng của da bị giảm sút đáng kể nên dễ bị tác động từ những thay đổi bên trong cơ thể và những ảnh hưởng từ môi trường nhất.

Ở độ tuổi 30: da giảm độ căng mịn, lỗ chân lông to ra và thậm chí xuất hiện vài nếp nhăn.

Ở độ tuổi 40: những nếp nhăn đã hình thành từ tuổi 30 sẽ hằn sâu hơn, lộ rõ và nhiều nếp nhăn trên trán. Dấu “chân chim” nơi khóe mắt cũng bắt đầu xuất hiện, da xỉn, ít sức sống.

Ở độ tuổi 50, 60: nếp nhăn sẽ chằng chịt nhiều hơn, da khô và thô ráp hơn.

Để khắc phục và hạn chế tình trạng lão hóa da

Bảo vệ da khỏi tác động của ánh nắng mặt trời: tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Sử dụng kem chống nắng có chỉ số chống nắng SPF từ 15 trở lên khi ra đường vào ban ngày, đội mũ rộng vành, đeo khẩu trang, găng tay…

Nuôi dưỡng da: thường xuyên dưỡng ẩm, bổ sung dưỡng chất cho da bằng các loại kem chống lão hóa vào ban đêm có thành phần chiết xuất từ trái cây, mía đường… Ngoài ra, có thể uống các loại thuốc như: vitamin A, E, C… để bổ sung chất và cải thiện làn da từ bên trong.

Tập thể dục thể thao, massage da mặt và cơ thể: giúp tinh thần thoải mái để có làn da hồng hào và săn chắc.

Cung cấp oxy nguyên chất cho da: cung cấp đủ lượng oxy nguyên chất và dinh dưỡng cho da sẽ tăng cường khả năng đề kháng của da, trước các tác động tiêu cực của môi trường và cả những thay đổi bất lợi về nội tiết bên trong cơ thể.

Ngoài ra, còn có một phương pháp can thiệp mang lại hiệu quả tức thời cho làn da như: căng da mặt, chích botox, đốt laser… Tuy nhiên, những phương pháp này khá tốn kém và dễ để lại những biến chứng như: sẹo, cơ mặt không biểu cảm, kích ứng da.

(Theo: suckhoedoisong.vn)

Lão hóa da và biện pháp phòng ngừa

Lão hóa da và biện pháp phòng ngừa

Thực tế, da là phần cơ thể tiếp xúc trực tiếp với môi trường. Vì vậy, da cũng là nơi chịu tác động đầu tiên của các yếu tố bên ngoài như: gió, bụi, ánh nắng mặt trời, tia X, tia phóng xạ… các yếu tố này kích thích cơ thể sản sinh ra các chất độc hại làm cho da bị sạm, khô, teo và dần xuất hiện các nếp nhăn và các đốm nâu đen.

Nguyên nhân và dấu hiệu lão hóa da

Kết quả từ nhiều cuộc nghiên cứu cho biết, có đến 90% nguyên nhân của lão hóa da là do ánh nắng mặt trời và chỉ có 10% là do di truyền. Về cơ bản, lão hóa da được hình thành từ 2 nhóm nguyên nhân sau:

Nhóm nguyên nhân nội sinh (lão hóa da nội sinh): là hiện tượng da già đi theo thời gian. Càng lớn tuổi các sợi collagen sẽ mất dần, các sợi đàn hồi (elastin) thượng bì bị teo mỏng đi, quá trình sản sinh tế bào bị giảm xuống. Da trở nên mỏng, mất tính đàn hồi, chùng nhão và nếp nhăn sâu xuất hiện.

Nhóm nguyên nhân ngoại sinh (lão hóa da ngoại sinh): do tác động của những yếu tố bên ngoài như: ánh nắng mặt trời, ô nhiễm môi trường, hóa chất, khói thuốc … Da là phần cơ thể tiếp xúc trực tiếp với môi trường và chịu tác động đầu tiên của các yếu tố bên ngoài: gió, bụi, ánh nắng mặt trời, tia X, tia phóng xạ… Dưới những tác nhân này, các sợi collagen và elastin bị thoái hóa, bề dày của da thay đổi, tế bào hắc tố ở thượng bì giảm, xuất hiện nhiều mạch máu nhỏ. Da có màu vàng sậm, nhiều nếp nhăn nhỏ, đồng thời những vùng da phơi bày ra ngoài ánh nắng như: mặt, vùng ngoài cánh tay, bàn tay sẽ có sự tăng giảm sắc tố. Đây là những dấu hiệu cho biết làn da đang “xuống cấp”. Sự xuống cấp này báo hiệu tình trạng lão hóa sắp sửa tấn công vào làn da. Tuy nhiên, những thay đổi trên da trong quá trình lão hóa rất đa dạng và ở mỗi độ tuổi khác nhau sẽ có những dấu hiệu lão hóa đặc trưng. Không chỉ là sự rối loạn sắc tố da điển hình như sự xuất hiện của những bướu lành trên da (nốt ruồi son, đồi mồi, những đốm nâu, đen hay xám, sần sùi, bong vảy…), mà còn là những biểu hiện rõ ràng, cụ thể ở từng độ tuổi.

Độ tuổi lão hóa da và biện pháp phòng ngừa

Giai đoạn và độ tuổi lão hóa thường không giống nhau với mỗi người. Làn da có thể có nguy cơ bị lão hóa bất cứ lúc nào nếu không được chăm sóc hợp lý. Ở một số người, đặc biệt, những người tiếp xúc nhiều với ánh nắng và da không được bảo vệ, làn da có thể bắt đầu lão hóa ngay từ năm 20 tuổi trở đi, nhưng những dấu hiệu này chưa bộc lộ rõ rệt và thường khó nhận biết.

Tuy nhiên theo thống kê, hiện nay tình trạng lão hóa da thường xuất hiện nhiều nhất ở độ tuổi 30 – 35. Nguyên nhân tình trạng lão hóa da ở phụ nữ lứa tuổi này là do sự mất cân bằng của một số hormone, khiến khả năng tự phục hồi của cơ thể bị suy yếu, lượng tế bào mỡ dưới da cũng như các sợi đàn hồi giảm đi làm làn da trở nên mỏng, khô, các cơ dần dần bị nhão, chảy xệ. Các tế bào da ở người trưởng thành ngày càng kém phân chia, nên da dễ bị khô, dễ bị bầm, tụ máu, các chức năng của da cũng giảm sút rõ rệt. Đây là thời điểm sức đề kháng của da bị giảm sút đáng kể nên dễ bị tác động từ những thay đổi bên trong cơ thể và những ảnh hưởng từ môi trường nhất.

Ở độ tuổi 30: da giảm độ căng mịn, lỗ chân lông to ra và thậm chí xuất hiện vài nếp nhăn.

Ở độ tuổi 40: những nếp nhăn đã hình thành từ tuổi 30 sẽ hằn sâu hơn, lộ rõ và nhiều nếp nhăn trên trán. Dấu “chân chim” nơi khóe mắt cũng bắt đầu xuất hiện, da xỉn, ít sức sống.

Ở độ tuổi 50, 60: nếp nhăn sẽ chằng chịt nhiều hơn, da khô và thô ráp hơn.

Để khắc phục và hạn chế tình trạng lão hóa da

Bảo vệ da khỏi tác động của ánh nắng mặt trời: tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Sử dụng kem chống nắng có chỉ số chống nắng SPF từ 15 trở lên khi ra đường vào ban ngày, đội mũ rộng vành, đeo khẩu trang, găng tay…

Nuôi dưỡng da: thường xuyên dưỡng ẩm, bổ sung dưỡng chất cho da bằng các loại kem chống lão hóa vào ban đêm có thành phần chiết xuất từ trái cây, mía đường… Ngoài ra, có thể uống các loại thuốc như: vitamin A, E, C… để bổ sung chất và cải thiện làn da từ bên trong.

Tập thể dục thể thao, massage da mặt và cơ thể: giúp tinh thần thoải mái để có làn da hồng hào và săn chắc.

Cung cấp oxy nguyên chất cho da: cung cấp đủ lượng oxy nguyên chất và dinh dưỡng cho da sẽ tăng cường khả năng đề kháng của da, trước các tác động tiêu cực của môi trường và cả những thay đổi bất lợi về nội tiết bên trong cơ thể.

Ngoài ra, còn có một phương pháp can thiệp mang lại hiệu quả tức thời cho làn da như: căng da mặt, chích botox, đốt laser… Tuy nhiên, những phương pháp này khá tốn kém và dễ để lại những biến chứng như: sẹo, cơ mặt không biểu cảm, kích ứng da.

(Theo: suckhoedoisong.vn)

Đọc thêm..

Bia rượu và các bệnh dị ứng

Theo các nghiên cứu về dịch tễ học, hiện nay, khoảng 30-40% dân số nhiều nước trên thế giới bị mắc các bệnh dị ứng, và tỷ lệ này đang có xu hướng ngày càng gia tăng, nhất là ở những nước công nghiệp phát triển.

Cùng với sự gia tăng này, một vấn đề đang hết sức được quan tâm đó là sự tác động của yếu tố môi trường đối với những bệnh dị ứng, đặc biệt là tác động của bia rượu, do việc sử dụng những thức uống này đang ngày càng trở nên phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Bên cạnh rất nhiều tác hại đối với sức khỏe con người đã được khẳng định như gây các bệnh lý về tim mạch , tâm thần kinh, tiêu hóa , bia rượu còn có thể có nhiều tác động tiêu cực đối với các bệnh dị ứng. Theo những kết quả nghiên cứu gần đây, các loại bia rượu có thể liên quan đến những phản ứng dị ứng tức thì sau khi uống và làm tăng nguy cơ mắc các bệnh dị ứng ở những người sử dụng kéo dài các thức uống này.

Trong thực tế, các phản ứng dị dứng tức thì liên quan đến bia rượu xảy ra tương đối phổ biến, với biểu hiện lâm sàng và cơ chế gây bệnh khá đa dạng và phức tạp. Hầu hết các trường hợp này không phải là những phản ứng dị ứng trực tiếp với cồn. Trên lâm sàng, các biểu hiện dị ứng sau uống bia, rượu thường gặp nhất là hội chứng nóng bừng (bao gồm cảm giác bốc hỏa, tụt huyết áp , tăng thân nhiệt, nhịp tim nhanh, chóng mặt, đau đầu, buồn ngủ, lo lắng, mệt mỏi và buồn nôn), mày đay, phù Quincke và sốc phản vệ. Ngoài ra, bia rượu còn có thể là yếu tố làm khởi phát hoặc làm nặng triệu chứng của một số bệnh dị ứng đã có từ trước như hen phế quản, viêm mũi dị ứng, dị ứng thức ăn, sốc phản vệ do vận động, mày đay, sẩn ngứa… ở những cá thể nhạy cảm. Các phản ứng dị ứng liên quan với bia, rượu thường gặp ở người châu Á, Trung và Nam Mỹ hơn so với các chủng tộc người khác, có thể do sự khác biệt trong quá trình chuyển hóa cồn giữa các chủng tộc.

Những nghiên cứu trên cả người và động vật trong khoảng 3 thập kỷ gần đây cho thấy, cồn và acetaldehyd (là sản phẩm chuyển hóa của cồn trong cơ thể) đều có thể trực tiếp phá vỡ các tế bào mast, gây giải phóng histamin và nhiều hoạt chất trung gian gây dị ứng. Ngoài ra, các chất này còn có thể ức chế quá trình chuyển hóa và đào thải histamin được hấp thu từ thức ăn, do đó, làm tăng nồng độ của hoạt chất này ở các tổ chức. Tăng nồng độ histamin chính là yếu tố quan trọng góp phần gây ra hội chứng nóng bừng, làm bùng phát triệu chứng của hen phế quản và nhiều bệnh dị ứng khác sau uống bia, rượu. Các nghiên cứu còn cho thấy, khí dung chất acetaldehyd có thể gây co thắt phế quản rất mạnh và gây ra cơn hen cấp.

Bên cạnh cơ chế kể trên, trong một số ít trường hợp, các biểu hiện dị ứng với bia, rượu còn có thể gây ra do phản ứng dị ứng trực tiếp với cồn. Trong những trường hợp này, các biểu hiện lâm sàng thường gặp là mày đay, phù Quincke hoặc sốc phản vệ. Cồn (etanol) và các sản phẩm chuyển hóa của nó đều có trọng lượng phân tử thấp và bản thân chúng không có khả năng gây dị ứng, nhưng khi chúng được gắn với protein trong cơ thể sẽ tạo ra các dị nguyên hoàn chỉnh có khả năng gây dị ứng. Trong một số nghiên cứu, người ta đã tìm thấy các kháng thể dị ứng kháng lại phức hợp với acetaldehyd – protein trong máu của những người bị dị ứng với rượu.

Ngoài cồn là yếu tố chủ yếu gây ra các vấn đề về dị ứng, các chất phụ gia, bảo quản và tạp chất như histamin, gốc sulphite hoặc phẩm nhuộm cũng có thể là nguyên nhân gây ra các phản ứng này trong một số trường hợp. Theo một số nghiên cứu, những người có cơ địa dị ứng với lúa mạch và men cũng sẽ có nguy cơ bị dị ứng với bia.

Bên cạnh những phản ứng dị ứng tức thì, đang có ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy việc dùng bia, rượu kéo dài có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh dị ứng với nhiều loại dị nguyên khác nhau. Các nghiên cứu về dịch tễ cho thấy, tỷ lệ mắc các bệnh dị ứng ở những người nghiện rượu cao hơn rõ rệt so với những người không nghiện. IgE là một loại kháng thể dị ứng quan trọng, có vai trò trung tâm trong hầu hết các phản ứng dị ứng loại hình nhanh ở người. Theo một số nghiên cứu gần đây, những người nghiện rượu hoặc thường xuyên uống rượu với số lượng trung bình có nồng độ kháng thể IgE trong máu cao hơn so với những người không uống rượu, sau khi cai rượu, nồng độ IgE của những người này lại giảm về bình thường. Không những vậy, ở những bà mẹ có nghiện rượu trong thời gian mang thai, những đứa con của họ cũng có nồng độ kháng thể IgE tăng cao. Việc tăng nồng độ IgE trong máu không phải là một bệnh và không gây ra các triệu chứng lâm sàng nhưng nó có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh dị ứng trong một số trường hợp. Bên cạnh việc làm tăng nồng độ IgE trong máu, dùng bia rượu thường xuyên còn có thể làm cho cơ thể trở nên nhạy cảm với một số yếu tố trong môi trường như bụi nhà, phấn hoa, thực phẩm… và dễ bị dị ứng với những yếu tố này. Mức nhạy cảm này tăng tỷ lệ thuận với lượng rượu uống hằng ngày, và sau khi cai rượu, mức nhạy cảm có thể trở về bình thường. Cơ chế chính xác của những hiện tượng này còn chưa được hiểu rõ, nhưng các nhà khoa học cho rằng đó là do sự tương tác giữa cồn ở trong bia, rượu và hệ thống miễn dịch, gây ra các rối loạn đáp ứng miễn dịch của cơ thể. Bản thân cồn là một chất có tác dụng điều hòa miễn dịch, các nghiên cứu tiêm cồn cho động vật thí nghiệm cũng có thể gây ra các đáp ứng về dị ứng tương tự như ở những người nghiện rượu.

Sưu tầm!

Bia rượu và các bệnh dị ứng

Bia rượu và các bệnh dị ứng

Theo các nghiên cứu về dịch tễ học, hiện nay, khoảng 30-40% dân số nhiều nước trên thế giới bị mắc các bệnh dị ứng, và tỷ lệ này đang có xu hướng ngày càng gia tăng, nhất là ở những nước công nghiệp phát triển.

Cùng với sự gia tăng này, một vấn đề đang hết sức được quan tâm đó là sự tác động của yếu tố môi trường đối với những bệnh dị ứng, đặc biệt là tác động của bia rượu, do việc sử dụng những thức uống này đang ngày càng trở nên phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Bên cạnh rất nhiều tác hại đối với sức khỏe con người đã được khẳng định như gây các bệnh lý về tim mạch , tâm thần kinh, tiêu hóa , bia rượu còn có thể có nhiều tác động tiêu cực đối với các bệnh dị ứng. Theo những kết quả nghiên cứu gần đây, các loại bia rượu có thể liên quan đến những phản ứng dị ứng tức thì sau khi uống và làm tăng nguy cơ mắc các bệnh dị ứng ở những người sử dụng kéo dài các thức uống này.

Trong thực tế, các phản ứng dị dứng tức thì liên quan đến bia rượu xảy ra tương đối phổ biến, với biểu hiện lâm sàng và cơ chế gây bệnh khá đa dạng và phức tạp. Hầu hết các trường hợp này không phải là những phản ứng dị ứng trực tiếp với cồn. Trên lâm sàng, các biểu hiện dị ứng sau uống bia, rượu thường gặp nhất là hội chứng nóng bừng (bao gồm cảm giác bốc hỏa, tụt huyết áp , tăng thân nhiệt, nhịp tim nhanh, chóng mặt, đau đầu, buồn ngủ, lo lắng, mệt mỏi và buồn nôn), mày đay, phù Quincke và sốc phản vệ. Ngoài ra, bia rượu còn có thể là yếu tố làm khởi phát hoặc làm nặng triệu chứng của một số bệnh dị ứng đã có từ trước như hen phế quản, viêm mũi dị ứng, dị ứng thức ăn, sốc phản vệ do vận động, mày đay, sẩn ngứa… ở những cá thể nhạy cảm. Các phản ứng dị ứng liên quan với bia, rượu thường gặp ở người châu Á, Trung và Nam Mỹ hơn so với các chủng tộc người khác, có thể do sự khác biệt trong quá trình chuyển hóa cồn giữa các chủng tộc.

Những nghiên cứu trên cả người và động vật trong khoảng 3 thập kỷ gần đây cho thấy, cồn và acetaldehyd (là sản phẩm chuyển hóa của cồn trong cơ thể) đều có thể trực tiếp phá vỡ các tế bào mast, gây giải phóng histamin và nhiều hoạt chất trung gian gây dị ứng. Ngoài ra, các chất này còn có thể ức chế quá trình chuyển hóa và đào thải histamin được hấp thu từ thức ăn, do đó, làm tăng nồng độ của hoạt chất này ở các tổ chức. Tăng nồng độ histamin chính là yếu tố quan trọng góp phần gây ra hội chứng nóng bừng, làm bùng phát triệu chứng của hen phế quản và nhiều bệnh dị ứng khác sau uống bia, rượu. Các nghiên cứu còn cho thấy, khí dung chất acetaldehyd có thể gây co thắt phế quản rất mạnh và gây ra cơn hen cấp.

Bên cạnh cơ chế kể trên, trong một số ít trường hợp, các biểu hiện dị ứng với bia, rượu còn có thể gây ra do phản ứng dị ứng trực tiếp với cồn. Trong những trường hợp này, các biểu hiện lâm sàng thường gặp là mày đay, phù Quincke hoặc sốc phản vệ. Cồn (etanol) và các sản phẩm chuyển hóa của nó đều có trọng lượng phân tử thấp và bản thân chúng không có khả năng gây dị ứng, nhưng khi chúng được gắn với protein trong cơ thể sẽ tạo ra các dị nguyên hoàn chỉnh có khả năng gây dị ứng. Trong một số nghiên cứu, người ta đã tìm thấy các kháng thể dị ứng kháng lại phức hợp với acetaldehyd – protein trong máu của những người bị dị ứng với rượu.

Ngoài cồn là yếu tố chủ yếu gây ra các vấn đề về dị ứng, các chất phụ gia, bảo quản và tạp chất như histamin, gốc sulphite hoặc phẩm nhuộm cũng có thể là nguyên nhân gây ra các phản ứng này trong một số trường hợp. Theo một số nghiên cứu, những người có cơ địa dị ứng với lúa mạch và men cũng sẽ có nguy cơ bị dị ứng với bia.

Bên cạnh những phản ứng dị ứng tức thì, đang có ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy việc dùng bia, rượu kéo dài có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh dị ứng với nhiều loại dị nguyên khác nhau. Các nghiên cứu về dịch tễ cho thấy, tỷ lệ mắc các bệnh dị ứng ở những người nghiện rượu cao hơn rõ rệt so với những người không nghiện. IgE là một loại kháng thể dị ứng quan trọng, có vai trò trung tâm trong hầu hết các phản ứng dị ứng loại hình nhanh ở người. Theo một số nghiên cứu gần đây, những người nghiện rượu hoặc thường xuyên uống rượu với số lượng trung bình có nồng độ kháng thể IgE trong máu cao hơn so với những người không uống rượu, sau khi cai rượu, nồng độ IgE của những người này lại giảm về bình thường. Không những vậy, ở những bà mẹ có nghiện rượu trong thời gian mang thai, những đứa con của họ cũng có nồng độ kháng thể IgE tăng cao. Việc tăng nồng độ IgE trong máu không phải là một bệnh và không gây ra các triệu chứng lâm sàng nhưng nó có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh dị ứng trong một số trường hợp. Bên cạnh việc làm tăng nồng độ IgE trong máu, dùng bia rượu thường xuyên còn có thể làm cho cơ thể trở nên nhạy cảm với một số yếu tố trong môi trường như bụi nhà, phấn hoa, thực phẩm… và dễ bị dị ứng với những yếu tố này. Mức nhạy cảm này tăng tỷ lệ thuận với lượng rượu uống hằng ngày, và sau khi cai rượu, mức nhạy cảm có thể trở về bình thường. Cơ chế chính xác của những hiện tượng này còn chưa được hiểu rõ, nhưng các nhà khoa học cho rằng đó là do sự tương tác giữa cồn ở trong bia, rượu và hệ thống miễn dịch, gây ra các rối loạn đáp ứng miễn dịch của cơ thể. Bản thân cồn là một chất có tác dụng điều hòa miễn dịch, các nghiên cứu tiêm cồn cho động vật thí nghiệm cũng có thể gây ra các đáp ứng về dị ứng tương tự như ở những người nghiện rượu.

Sưu tầm!

Đọc thêm..

Bệnh tổ đỉa

1.Chẩn đoán:

- Vị trí: 2 lông bàn tay, lông bàn chân (đầu ngón, mặt dưới, mặt dưới ngón, ria ngón, vòm lòng bàn tay, ô mô cái, ô mô út, vòm lông bàn chân0.

- Tổn thương cơ bản:

Mụn nước sâu, chìm dưới da, như khảm vào da, kích thước 1-2 mm, không tự vỡ.

Mụn nước phân bố rải rác hay thành đmá cụm.

Triệu chứng cơ năng:

- Ngứa nhiều:

- Hay tái phát, thường tái phát vào mùa hè.

- Do ngứa chọc gãi làm xuất hiện mụn mủ, vết chợt, bàn tay chân có khó sưng táy nhiễm khuẩn thứ phát, hạch nách, bẹn sưng ( tổ đỉa nhiễm khuẩn).

2. Thể lâm sàng

- Tổ đỉa thể giản đơn: tổn thương là mụn nước sâu ở vị trí trên.

- Tổ đỉa nhiễm khuẩn: có mụn mủ, chợt loét, sưng viêm tấy.

- Tổ đỉa thể khô: lòng bàn tay chân có đảm đỏ róc vẩy.

3. Chẩn đoán phân biệt

+ Ghẻ:

Vị trí kẽ ngón tay, ngấn cổ tay.

Tổn thương là mụn nước đường hang.

Nhể khêu bắt được cái ghẻ.

Ngứa nhiều về đêm.

Có tính chất lây lan.

+ Eczema bàn tay, bàn chân:

Vị trí thường ở mặt lưng (mu) bàn tay chân.

Đám đỏ, nên có mụn nước nhỏ, nông chi chít, tự vỡ.

Đám tổn thương chợt chảy dịch.

Lâu ngày liken hoá dày cộm.

(tổ đỉa không bào giờ liken hoá).

4. Điều trị

- Tại chỗ:

+ Mụn nước đơn thuần bôi cồn focmolsalicylic 3%.

Mụn mủ, chột bôi thuốc màu(dd tím Metin 1% , dd xanh metilen 1%).

Khi tổn thương khô bỗi mỡ corticoids (Flucinar, synalar)

Toàn thân:

- Nếu có bội nhiễm cho uống một đợt kháng sinh.

- Kháng sinh Histamin tổng hợp: Histalong 10 mg /1 viên /ngày.

- Vitamin c 0,50 2 viên/ ngày hoặc ascorvit 500mg 2ống/ ngày tiêm tĩnh mạch chậm.

- Đông y : xông khói thương truật 5 phút ( bàn tay, bàn chân).

Chú ý: Giữa bàn tay bàn chân khô sạch.

Hạn chế xà phòng.

Trách nhiệm ngâm nước nhiều, bẩn, phân gio đất cát.

- Một số trường hợp tổ đỉa căn nguyên do nấm thì cho dùng kháng sinh chống nấm Griseofulvin 0,502 viên / ngày x 30ngày.

- Tổ đỉa là bệnh dị ứng, cơ thể địa dị ứng, tác nhân kích thích là vi khuẩn ( tụ cầu, liên cầu) : hoá chất; một số trường hợp là nấm.

Theo benhhoc.com

Bệnh tổ đỉa

Bệnh tổ đỉa

1.Chẩn đoán:

- Vị trí: 2 lông bàn tay, lông bàn chân (đầu ngón, mặt dưới, mặt dưới ngón, ria ngón, vòm lòng bàn tay, ô mô cái, ô mô út, vòm lông bàn chân0.

- Tổn thương cơ bản:

Mụn nước sâu, chìm dưới da, như khảm vào da, kích thước 1-2 mm, không tự vỡ.

Mụn nước phân bố rải rác hay thành đmá cụm.

Triệu chứng cơ năng:

- Ngứa nhiều:

- Hay tái phát, thường tái phát vào mùa hè.

- Do ngứa chọc gãi làm xuất hiện mụn mủ, vết chợt, bàn tay chân có khó sưng táy nhiễm khuẩn thứ phát, hạch nách, bẹn sưng ( tổ đỉa nhiễm khuẩn).

2. Thể lâm sàng

- Tổ đỉa thể giản đơn: tổn thương là mụn nước sâu ở vị trí trên.

- Tổ đỉa nhiễm khuẩn: có mụn mủ, chợt loét, sưng viêm tấy.

- Tổ đỉa thể khô: lòng bàn tay chân có đảm đỏ róc vẩy.

3. Chẩn đoán phân biệt

+ Ghẻ:

Vị trí kẽ ngón tay, ngấn cổ tay.

Tổn thương là mụn nước đường hang.

Nhể khêu bắt được cái ghẻ.

Ngứa nhiều về đêm.

Có tính chất lây lan.

+ Eczema bàn tay, bàn chân:

Vị trí thường ở mặt lưng (mu) bàn tay chân.

Đám đỏ, nên có mụn nước nhỏ, nông chi chít, tự vỡ.

Đám tổn thương chợt chảy dịch.

Lâu ngày liken hoá dày cộm.

(tổ đỉa không bào giờ liken hoá).

4. Điều trị

- Tại chỗ:

+ Mụn nước đơn thuần bôi cồn focmolsalicylic 3%.

Mụn mủ, chột bôi thuốc màu(dd tím Metin 1% , dd xanh metilen 1%).

Khi tổn thương khô bỗi mỡ corticoids (Flucinar, synalar)

Toàn thân:

- Nếu có bội nhiễm cho uống một đợt kháng sinh.

- Kháng sinh Histamin tổng hợp: Histalong 10 mg /1 viên /ngày.

- Vitamin c 0,50 2 viên/ ngày hoặc ascorvit 500mg 2ống/ ngày tiêm tĩnh mạch chậm.

- Đông y : xông khói thương truật 5 phút ( bàn tay, bàn chân).

Chú ý: Giữa bàn tay bàn chân khô sạch.

Hạn chế xà phòng.

Trách nhiệm ngâm nước nhiều, bẩn, phân gio đất cát.

- Một số trường hợp tổ đỉa căn nguyên do nấm thì cho dùng kháng sinh chống nấm Griseofulvin 0,502 viên / ngày x 30ngày.

- Tổ đỉa là bệnh dị ứng, cơ thể địa dị ứng, tác nhân kích thích là vi khuẩn ( tụ cầu, liên cầu) : hoá chất; một số trường hợp là nấm.

Theo benhhoc.com

Đọc thêm..

Nguyên nhân của bệnh ghẻ và cách điều trị

Chào bác sĩ, con gái tôi 7 tuổi, cháu đi học nửa buổi và bán trú ở trường nửa buổi. Cách đây hai tuần hai tay cháu nổi mụn rất dày, tôi cho cháu đi khám ở bệnh viện da liễu, bác sĩ bảo là bị ghẻ và cho bôi thuốc DEP. Tôi cho cháu bôi khoảng 1 tuần thấy đỡ, nhưng nay những nốt ghẻ đó lại xuất hiện trở lại, xin bác sĩ cho biết nguyên nhân và cách điều trị. Xin cảm ơn. (Vũ Xuân Hà)

Trả lời:

Ghẻ là một bệnh do ký sinh trùng gây nên hay gặp vào mùa xuân hè. Ở những nước kém phát triển điều kiện dinh dưỡng và vệ sinh kém, bệnh có thể lây thành dịch địa phương. Ở nước ta bệnh vẫn còn lưu hành khắp các vùng trong cả nước. Ngay cả ở những thành phố lớn, bệnh ghẻ vẫn tồn tại.

Vì sao mắc bệnh ghẻ?

Bệnh ghẻ đôi khi cũng bị một số thầy thuốc chẩn đoán nhầm. Có những gia đình bị ghẻ cả nhà trong suốt 2 năm trời vẫn chưa được chẩn đoán và điều trị đúng. Căn nguyên gây bệnh là một loại ký sinh trùng có tên là Sarcoptes Scabiei, có nơi còn gọi là con mạt ngứa (itch mite). Con cái có kích thước từ 0,3-0,5mm. Cái ghẻ xâm nhập vào đường biểu bì da đào hầm và đẻ trứng. Chúng đẻ từ 2-3 trứng/ngày và đẻ liên tục trong 4-6 tuần liền. Ghẻ đực chết ngay sau khi hoàn thành nghĩa vụ phối giống và ghẻ cái cũng chết sau khi đã đẻ hết số trứng của mình. Trứng nở thành ấu trùng và phát triển thành con trưởng thành chỉ trong vòng 3-4 ngày.

Ghẻ lây như thế nào?

Lây bệnh ghẻ là do tiếp xúc trực tiếp với người bị ghẻ, nằm chung giường, mặc chung quần áo, dùng chung khăn tắm. Chính vì vậy, mà bệnh ghẻ được xếp vào nhóm bệnh lây truyền qua đường tình dục. Cái ghẻ có thể sống ngoài cơ thể được 2-3 ngày.

Người bị nhiễm ký sinh trùng ghẻ lần đầu tiên trong vòng 2 tuần đầu hoàn toàn chưa có biểu hiện ngứa mặc dù ngứa ghẻ được so sánh với đau đẻ và đòn ghen. Nhưng do có thể mới bị ghẻ xâm nhập nên chưa có sự phản ứng lại (hay là sự nhạy cảm) nên chưa thấy ngứa, điều đó lý giải tại sao một số bệnh nhân có tổn thương ghẻ thực sự mà hoàn toàn chưa thấy ngứa. Những người bị tái nhiễm ghẻ thì xuất hiện ngứa dữ dội ngay từ khi cái ghẻ xâm nhập vào da.

Chẩn đoán ghẻ

Việc chẩn đoán ghẻ rất dễ, ai đó từng bị ghẻ đều có thể nhận ra được, nhưng đôi khi cũng bị nhầm lẫn tại các phòng khám chuyên khoa vì ghẻ lâu ngày tạo thành eczema hóa hoặc bội nhiễm hoặc ghẻ vảy. Cũng giống bệnh viêm ruột thừa, đôi khi cũng bị chẩn đoán nhầm bởi những nhà ngoại khoa. Chẩn đoán dựa vào triệu chứng bệnh ngứa nhiều về ban đêm, ngứa tăng khi trời nóng, lao động, thể thao. Mụn nước ở vị trí đặc hiệu, kẽ ngón tay, lằn chỉ cổ tay, nếp gấp bàn tay, vùng thắt lưng, cạp quần, bẹn, đùi, sinh dục, nách, núm vú ở phụ nữ. Điều đặc biệt là ghẻ không thấy ở mặt, đầu và 1/3 trên lưng. Đối với trẻ em dưới 2 tuổi có thể bị ghẻ toàn thân. Có thể dùng kính lúp soi bắt được cái ghẻ nằm ở cuối đường hầm trong da.

Ghẻ vảy còn gọi là ghẻ Nauy (Norwegian scabies). Khác với ghẻ thông thường, thương tổn ghẻ không phải là mụn nước mà là đám vảy tiết lẫn vảy da dày giống như bệnh vảy nến. Tổn thương cả ở dưới móng, mặt và đầu. Điều đặc biệt là triệu chứng ngứa rất nhẹ nhưng lại rất nhiều cái ghẻ nằm trong đám vảy tiết. Ghẻ vảy rất hiếm gặp, chỉ thấy ở những người có miễn dịch kém như: bệnh nhân AIDS, hội chứng Down, người bệnh tâm thần phân liệt, phạm nhân…

Điều trị ghẻ bằng cách nào?

Đông y thường dùng lá cây ba gạc, lá đào đun nước tắm, nhựa cây máu chó bôi tại chỗ, tắm nước muối, tắm biển..

Tây y có thể dùng một trong những loại thuốc sau:

- D.E.P (dietyl phtalat) là thuốc chống muỗi, vắt đốt nhưng có tác dụng diệt cái ghẻ nhanh và rẻ tiền, ít độc tính. Bôi ngày 2-3 lần. Thuốc không nên dùng cho trẻ nhũ nhi và không bôi vào bộ phận sinh dục.

- Benzyl benzoat (ascabiol, scabitox, zylate) là thuốc rất tốt, độ an toàn cao. Bôi, xịt ngày 2 lần cách nhau 15 phút. 24 giờ sau tắm gội và giặt quần áo.

- Eurax (crotamintan) 10%, thuốc bôi có tác dụng chống ngứa và diệt cái ghẻ. Cứ 6-10 giờ bôi 1 lần thuốc, an toàn, có thể bôi được ở bộ phận sinh dục và dùng được cho trẻ nhũ nhi.

- Permethrin cream 5% (elimite) là thuốc chữa ghẻ ít độc tính nhất, có thể dùng cho trẻ em và phụ nữ có thai.

- Lindane (gamma-benzen hexachlorid, kwell) xịt thuốc vào toàn bộ da từ cổ xuống chân. Sau 8-12 giờ tắm rửa thay quần áo, xịt thuốc 2 lần/tuần, thuốc chữa ghẻ nhanh nhưng độc với thần kinh nên không dùng cho trẻ nhỏ và phụ nữ có thai.

Đối với ghẻ vảy, ngoài thuốc bôi tại chỗ còn phải uống thuốc ivermactin, là thuốc được dùng để điều trị giun chỉ nhưng lại rất hiệu quả và an toàn trong điều trị ghẻ, đặc biệt là ghẻ vảy. Liều lượng 20mg/kgcân nặng/1 lần, nhắc lại sau 1-2 tuần. Uống thuốc vào lúc đói.

Lưu ý, khi điều trị ghẻ phải điều trị cho cả những người sống chung trong gia đình và các nguồn lây khác bên ngoài (ví dụ như các bạn học cùng lớp), tẩy uế quần áo, ga gối.

(Thông tin tư vấn sau đây chỉ mang tính tham khảo – không tự ý chữa bệnh theo thông tin này)

Chúc bạn và gia đình sức khoẻ.

Theo “Từ điển Y Dược trực tuyến”

Nguyên nhân của bệnh ghẻ và cách điều trị

Nguyên nhân của bệnh ghẻ và cách điều trị

Chào bác sĩ, con gái tôi 7 tuổi, cháu đi học nửa buổi và bán trú ở trường nửa buổi. Cách đây hai tuần hai tay cháu nổi mụn rất dày, tôi cho cháu đi khám ở bệnh viện da liễu, bác sĩ bảo là bị ghẻ và cho bôi thuốc DEP. Tôi cho cháu bôi khoảng 1 tuần thấy đỡ, nhưng nay những nốt ghẻ đó lại xuất hiện trở lại, xin bác sĩ cho biết nguyên nhân và cách điều trị. Xin cảm ơn. (Vũ Xuân Hà)

Trả lời:

Ghẻ là một bệnh do ký sinh trùng gây nên hay gặp vào mùa xuân hè. Ở những nước kém phát triển điều kiện dinh dưỡng và vệ sinh kém, bệnh có thể lây thành dịch địa phương. Ở nước ta bệnh vẫn còn lưu hành khắp các vùng trong cả nước. Ngay cả ở những thành phố lớn, bệnh ghẻ vẫn tồn tại.

Vì sao mắc bệnh ghẻ?

Bệnh ghẻ đôi khi cũng bị một số thầy thuốc chẩn đoán nhầm. Có những gia đình bị ghẻ cả nhà trong suốt 2 năm trời vẫn chưa được chẩn đoán và điều trị đúng. Căn nguyên gây bệnh là một loại ký sinh trùng có tên là Sarcoptes Scabiei, có nơi còn gọi là con mạt ngứa (itch mite). Con cái có kích thước từ 0,3-0,5mm. Cái ghẻ xâm nhập vào đường biểu bì da đào hầm và đẻ trứng. Chúng đẻ từ 2-3 trứng/ngày và đẻ liên tục trong 4-6 tuần liền. Ghẻ đực chết ngay sau khi hoàn thành nghĩa vụ phối giống và ghẻ cái cũng chết sau khi đã đẻ hết số trứng của mình. Trứng nở thành ấu trùng và phát triển thành con trưởng thành chỉ trong vòng 3-4 ngày.

Ghẻ lây như thế nào?

Lây bệnh ghẻ là do tiếp xúc trực tiếp với người bị ghẻ, nằm chung giường, mặc chung quần áo, dùng chung khăn tắm. Chính vì vậy, mà bệnh ghẻ được xếp vào nhóm bệnh lây truyền qua đường tình dục. Cái ghẻ có thể sống ngoài cơ thể được 2-3 ngày.

Người bị nhiễm ký sinh trùng ghẻ lần đầu tiên trong vòng 2 tuần đầu hoàn toàn chưa có biểu hiện ngứa mặc dù ngứa ghẻ được so sánh với đau đẻ và đòn ghen. Nhưng do có thể mới bị ghẻ xâm nhập nên chưa có sự phản ứng lại (hay là sự nhạy cảm) nên chưa thấy ngứa, điều đó lý giải tại sao một số bệnh nhân có tổn thương ghẻ thực sự mà hoàn toàn chưa thấy ngứa. Những người bị tái nhiễm ghẻ thì xuất hiện ngứa dữ dội ngay từ khi cái ghẻ xâm nhập vào da.

Chẩn đoán ghẻ

Việc chẩn đoán ghẻ rất dễ, ai đó từng bị ghẻ đều có thể nhận ra được, nhưng đôi khi cũng bị nhầm lẫn tại các phòng khám chuyên khoa vì ghẻ lâu ngày tạo thành eczema hóa hoặc bội nhiễm hoặc ghẻ vảy. Cũng giống bệnh viêm ruột thừa, đôi khi cũng bị chẩn đoán nhầm bởi những nhà ngoại khoa. Chẩn đoán dựa vào triệu chứng bệnh ngứa nhiều về ban đêm, ngứa tăng khi trời nóng, lao động, thể thao. Mụn nước ở vị trí đặc hiệu, kẽ ngón tay, lằn chỉ cổ tay, nếp gấp bàn tay, vùng thắt lưng, cạp quần, bẹn, đùi, sinh dục, nách, núm vú ở phụ nữ. Điều đặc biệt là ghẻ không thấy ở mặt, đầu và 1/3 trên lưng. Đối với trẻ em dưới 2 tuổi có thể bị ghẻ toàn thân. Có thể dùng kính lúp soi bắt được cái ghẻ nằm ở cuối đường hầm trong da.

Ghẻ vảy còn gọi là ghẻ Nauy (Norwegian scabies). Khác với ghẻ thông thường, thương tổn ghẻ không phải là mụn nước mà là đám vảy tiết lẫn vảy da dày giống như bệnh vảy nến. Tổn thương cả ở dưới móng, mặt và đầu. Điều đặc biệt là triệu chứng ngứa rất nhẹ nhưng lại rất nhiều cái ghẻ nằm trong đám vảy tiết. Ghẻ vảy rất hiếm gặp, chỉ thấy ở những người có miễn dịch kém như: bệnh nhân AIDS, hội chứng Down, người bệnh tâm thần phân liệt, phạm nhân…

Điều trị ghẻ bằng cách nào?

Đông y thường dùng lá cây ba gạc, lá đào đun nước tắm, nhựa cây máu chó bôi tại chỗ, tắm nước muối, tắm biển..

Tây y có thể dùng một trong những loại thuốc sau:

- D.E.P (dietyl phtalat) là thuốc chống muỗi, vắt đốt nhưng có tác dụng diệt cái ghẻ nhanh và rẻ tiền, ít độc tính. Bôi ngày 2-3 lần. Thuốc không nên dùng cho trẻ nhũ nhi và không bôi vào bộ phận sinh dục.

- Benzyl benzoat (ascabiol, scabitox, zylate) là thuốc rất tốt, độ an toàn cao. Bôi, xịt ngày 2 lần cách nhau 15 phút. 24 giờ sau tắm gội và giặt quần áo.

- Eurax (crotamintan) 10%, thuốc bôi có tác dụng chống ngứa và diệt cái ghẻ. Cứ 6-10 giờ bôi 1 lần thuốc, an toàn, có thể bôi được ở bộ phận sinh dục và dùng được cho trẻ nhũ nhi.

- Permethrin cream 5% (elimite) là thuốc chữa ghẻ ít độc tính nhất, có thể dùng cho trẻ em và phụ nữ có thai.

- Lindane (gamma-benzen hexachlorid, kwell) xịt thuốc vào toàn bộ da từ cổ xuống chân. Sau 8-12 giờ tắm rửa thay quần áo, xịt thuốc 2 lần/tuần, thuốc chữa ghẻ nhanh nhưng độc với thần kinh nên không dùng cho trẻ nhỏ và phụ nữ có thai.

Đối với ghẻ vảy, ngoài thuốc bôi tại chỗ còn phải uống thuốc ivermactin, là thuốc được dùng để điều trị giun chỉ nhưng lại rất hiệu quả và an toàn trong điều trị ghẻ, đặc biệt là ghẻ vảy. Liều lượng 20mg/kgcân nặng/1 lần, nhắc lại sau 1-2 tuần. Uống thuốc vào lúc đói.

Lưu ý, khi điều trị ghẻ phải điều trị cho cả những người sống chung trong gia đình và các nguồn lây khác bên ngoài (ví dụ như các bạn học cùng lớp), tẩy uế quần áo, ga gối.

(Thông tin tư vấn sau đây chỉ mang tính tham khảo – không tự ý chữa bệnh theo thông tin này)

Chúc bạn và gia đình sức khoẻ.

Theo “Từ điển Y Dược trực tuyến”

Đọc thêm..

Trời lạnh, bệnh mày đay hành người

Những ngày qua, khí hậu các tỉnh phía Bắc trở rét, hanh khô kéo dài khiến nhiều người có biểu hiện da khô ráp, nổi sẩn và ngứa.

Bác sĩ Nguyễn Thành, Trưởng khoa Khám bệnh, Viện Da liễu Quốc gia cho hay, một ngày khoa tiếp nhận trên 15 bệnh nhân đến khám liên quan đến bệnh mày đay – một bệnh thường xảy ra vào những ngày mùa đông hanh khô.

Trên thực tế số người mắc các bệnh về da vào mùa đông rất cao nhưng không phải ai cũng đến viện khám. Đây là bệnh do thời tiết nên có thể tự điều trị tại nhà.

Ngứa khắp người, gãi xước da

”Mỗi lần tắm xong, mặc quần áo vào, nhất là đồ len dạ, cảm giác người nóng ran và ngứa khắp người, những lúc đó chỉ còn cách dùng kem dưỡng ẩm bôi lên mới hy vọng dứt cơn ngứa…”, chị Mai Dung, ở Hoàng Mai, Hà Nội đang ”say sưa” kể về nỗi khổ của mình với đồng nghiệp.

Hoá ra nỗi khổ đó không chỉ riêng của chị Dung mà nhiều người cũng bị trong những ngày qua. Người thì ngứa ở lưng, ở tay, ở chân… thậm chí cả mông.

Còn bàn tay của chị Hương, chủ cửa hàng làm đầu Thu Hương trên phố Cầu Giấy, Hà Nội mấy hôm nay đỏ tấy, khô ráp và ngứa. Công việc hàng ngày đòi hỏi chị phải tiếp xúc nhiều với hoá chất như dầu gội đầu, thuốc nhuộm tóc, hấp tóc… khiến đôi bàn tay bị ”xâm hại”. ”Sử dụng găng tay thì không thật và làm rất chậm nhưng bỏ ra thì bàn tay nứt nẻ hết. Ban ngày động nước nhiều còn đỡ nhưng tối đến nó khô hết lại cảm giác rát bỏng và ngứa hành hạ rất khó chịu. Kem dưỡng ẩm bôi không đỡ vì thời tiết này khô hanh quá lại tiếp xúc với hoá chất quá nhiều”, chị Hương nói.

Tất cả đều có chung biểu hiện lúc đầu là khô da rồi dần dần căng ra gây ngứa. Nếu cố chịu đựng không gãi, sử dụng kem dưỡng ẩm sẽ đỡ. Nhưng khi đã gãi thì vết mẩn đỏ càng lan và gây khó chịu. Tuy nhiên, khi thời tiết ấm, đỡ hanh khô thì tình trạng trên sẽ tự hết.

BS. Nguyễn Thành cho hay, đây là bệnh rất nhiều người mắc phải vào mùa đông, nhất là thời điểm hanh khô. Những bệnh nhân có cơ địa da khô càng dễ phát. Phản ứng của người bệnh khi bị khô da là ngứa, gãi gây xước da.

Cách chữa đơn giản và hiệu quả nhất mà mọi người thường áp dụng là hạn chế sử dụng nước quá nóng, tiếp xúc với hoá chất, đặc biệt nên sử dụng kem dưỡng ẩm.

Khô ráp da còn do bệnh mày đay

Theo BS. Nguyễn Thành, một trong những nguyên nhân bệnh mày đay gia tăng những ngày qua do biên độ dao động nhiệt độ ngày và đêm lớn.

Người bệnh thường có biểu hiện da đỏ, xuất hiện phù nề nhanh nhưng cũng mất nhanh phụ thuộc vào khả năng điều trị.

Bệnh mày đay có 2 thể: cấp tính và mạn tính.

Mày đay cấp tính xảy ra đột ngột và xuất hiện ở bất kỳ vùng da, niêm mạc nào trên cơ thể, biểu hiện các nốt sẩn, phù nề màu hồng hoặc đỏ. Ngứa là triệu chứng điển hình nhất của mày đay. Ngứa rất dữ dội, càng gãi càng ngứa. Có khi gãi chảy máu vẫn không đỡ ngứa. Nốt sẩn ngứa kéo dài vài ba phút đến vài ba giờ rồi lặn. Bệnh có thể biểu hiện ở đường tiêu hóa gây đau quặn bụng, nôn, tiêu chảy, thậm chí xảy ra ở tổ chức não gây phù nề rất nguy hiểm.

Mày đay mạn tính xảy ra khi bệnh xuất hiện kế tiếp nhau nhiều lần hoặc cách quãng, không kể số lượng nốt sẩn nhiều hay ít. Mày đay mạn tính gặp ở nhiều dạng khác nhau như: mày đay thành vòng, thành vạch, mày đay xuất huyết, mày đay mụn nước.

Trong tuần này, khoa khám bệnh đã điều trị cho một bệnh nhân N.T.P. 35 tuổi, ở Hà Nội mắc mày đay mạn tính. Bệnh nhân nhập viện trong tình trạng đau bụng, nôn. Các cơn đau không liên tục mà theo từng đợt. Sau khi khám và cho thuốc uống thể trạng bệnh nhân đã khá hơn và được xuất viện ngay trong ngày.

BS. Nguyễn Thành cho hay, trường hợp như bệnh nhân này không phải ai cũng gặp. Tuy nhiên, khi bị bệnh mày đay, nên đến khám bác sĩ để được xác định nguyên nhân và có chỉ định thích hợp cho từng loại mày đay.

Những ngày này, khi độ ẩm xuống thấp, thời tiết hanh khô gây khó chịu cho làn da.

BS. Nguyễn Thành có lời khuyên với mọi người, nếu phải ra đường nên dùng khẩu trang, mũ và sử dụng kem dưỡng da trước khi ra đường 1 tiếng đồng hồ. Khi thấy da khô vùng nào có thể dùng kem bôi lên chỗ đó. Nếu người nào có da nhạy cảm không nên tiếp xúc nhiều với hoá chất, nếu buộc phải dùng nên đi găng tay. Với những trường hợp nặng, nên đến khám bác sĩ khi có biểu hiện ngứa.

Theo vietnamnet.vn

Trời lạnh, bệnh mày đay hành người

Trời lạnh, bệnh mày đay hành người

Những ngày qua, khí hậu các tỉnh phía Bắc trở rét, hanh khô kéo dài khiến nhiều người có biểu hiện da khô ráp, nổi sẩn và ngứa.

Bác sĩ Nguyễn Thành, Trưởng khoa Khám bệnh, Viện Da liễu Quốc gia cho hay, một ngày khoa tiếp nhận trên 15 bệnh nhân đến khám liên quan đến bệnh mày đay – một bệnh thường xảy ra vào những ngày mùa đông hanh khô.

Trên thực tế số người mắc các bệnh về da vào mùa đông rất cao nhưng không phải ai cũng đến viện khám. Đây là bệnh do thời tiết nên có thể tự điều trị tại nhà.

Ngứa khắp người, gãi xước da

”Mỗi lần tắm xong, mặc quần áo vào, nhất là đồ len dạ, cảm giác người nóng ran và ngứa khắp người, những lúc đó chỉ còn cách dùng kem dưỡng ẩm bôi lên mới hy vọng dứt cơn ngứa…”, chị Mai Dung, ở Hoàng Mai, Hà Nội đang ”say sưa” kể về nỗi khổ của mình với đồng nghiệp.

Hoá ra nỗi khổ đó không chỉ riêng của chị Dung mà nhiều người cũng bị trong những ngày qua. Người thì ngứa ở lưng, ở tay, ở chân… thậm chí cả mông.

Còn bàn tay của chị Hương, chủ cửa hàng làm đầu Thu Hương trên phố Cầu Giấy, Hà Nội mấy hôm nay đỏ tấy, khô ráp và ngứa. Công việc hàng ngày đòi hỏi chị phải tiếp xúc nhiều với hoá chất như dầu gội đầu, thuốc nhuộm tóc, hấp tóc… khiến đôi bàn tay bị ”xâm hại”. ”Sử dụng găng tay thì không thật và làm rất chậm nhưng bỏ ra thì bàn tay nứt nẻ hết. Ban ngày động nước nhiều còn đỡ nhưng tối đến nó khô hết lại cảm giác rát bỏng và ngứa hành hạ rất khó chịu. Kem dưỡng ẩm bôi không đỡ vì thời tiết này khô hanh quá lại tiếp xúc với hoá chất quá nhiều”, chị Hương nói.

Tất cả đều có chung biểu hiện lúc đầu là khô da rồi dần dần căng ra gây ngứa. Nếu cố chịu đựng không gãi, sử dụng kem dưỡng ẩm sẽ đỡ. Nhưng khi đã gãi thì vết mẩn đỏ càng lan và gây khó chịu. Tuy nhiên, khi thời tiết ấm, đỡ hanh khô thì tình trạng trên sẽ tự hết.

BS. Nguyễn Thành cho hay, đây là bệnh rất nhiều người mắc phải vào mùa đông, nhất là thời điểm hanh khô. Những bệnh nhân có cơ địa da khô càng dễ phát. Phản ứng của người bệnh khi bị khô da là ngứa, gãi gây xước da.

Cách chữa đơn giản và hiệu quả nhất mà mọi người thường áp dụng là hạn chế sử dụng nước quá nóng, tiếp xúc với hoá chất, đặc biệt nên sử dụng kem dưỡng ẩm.

Khô ráp da còn do bệnh mày đay

Theo BS. Nguyễn Thành, một trong những nguyên nhân bệnh mày đay gia tăng những ngày qua do biên độ dao động nhiệt độ ngày và đêm lớn.

Người bệnh thường có biểu hiện da đỏ, xuất hiện phù nề nhanh nhưng cũng mất nhanh phụ thuộc vào khả năng điều trị.

Bệnh mày đay có 2 thể: cấp tính và mạn tính.

Mày đay cấp tính xảy ra đột ngột và xuất hiện ở bất kỳ vùng da, niêm mạc nào trên cơ thể, biểu hiện các nốt sẩn, phù nề màu hồng hoặc đỏ. Ngứa là triệu chứng điển hình nhất của mày đay. Ngứa rất dữ dội, càng gãi càng ngứa. Có khi gãi chảy máu vẫn không đỡ ngứa. Nốt sẩn ngứa kéo dài vài ba phút đến vài ba giờ rồi lặn. Bệnh có thể biểu hiện ở đường tiêu hóa gây đau quặn bụng, nôn, tiêu chảy, thậm chí xảy ra ở tổ chức não gây phù nề rất nguy hiểm.

Mày đay mạn tính xảy ra khi bệnh xuất hiện kế tiếp nhau nhiều lần hoặc cách quãng, không kể số lượng nốt sẩn nhiều hay ít. Mày đay mạn tính gặp ở nhiều dạng khác nhau như: mày đay thành vòng, thành vạch, mày đay xuất huyết, mày đay mụn nước.

Trong tuần này, khoa khám bệnh đã điều trị cho một bệnh nhân N.T.P. 35 tuổi, ở Hà Nội mắc mày đay mạn tính. Bệnh nhân nhập viện trong tình trạng đau bụng, nôn. Các cơn đau không liên tục mà theo từng đợt. Sau khi khám và cho thuốc uống thể trạng bệnh nhân đã khá hơn và được xuất viện ngay trong ngày.

BS. Nguyễn Thành cho hay, trường hợp như bệnh nhân này không phải ai cũng gặp. Tuy nhiên, khi bị bệnh mày đay, nên đến khám bác sĩ để được xác định nguyên nhân và có chỉ định thích hợp cho từng loại mày đay.

Những ngày này, khi độ ẩm xuống thấp, thời tiết hanh khô gây khó chịu cho làn da.

BS. Nguyễn Thành có lời khuyên với mọi người, nếu phải ra đường nên dùng khẩu trang, mũ và sử dụng kem dưỡng da trước khi ra đường 1 tiếng đồng hồ. Khi thấy da khô vùng nào có thể dùng kem bôi lên chỗ đó. Nếu người nào có da nhạy cảm không nên tiếp xúc nhiều với hoá chất, nếu buộc phải dùng nên đi găng tay. Với những trường hợp nặng, nên đến khám bác sĩ khi có biểu hiện ngứa.

Theo vietnamnet.vn

Đọc thêm..

Ngứa – Nguyên nhân vì sao?

Những ngày qua, tại các phòng khám da liễu của các bệnh viện, bệnh nhân đến khám do sẩn ngứa ngoài da tăng đột biến. Để có cái nhìn toàn diện về căn bệnh ngứa da, chúng tôi xin đăng bài viết của PGS.TS. Bùi Khắc Hậu để bạn đọc tham khảo.

Ngứa da là một triệu chứng thường gặp với nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên. Khi ngứa, người bệnh sẽ gãi làm xây xước da, chảy máu gây nhiễm trùng mưng mủ hoặc ngứa, gãi tạo thành các nốt sẩn, mụn nước, khi khỏi ngứa thường để lại các nốt thâm, thậm chí để lại các nốt sẹo nhỏ. Nguyên nhân gây nên ngứa có thể ở ngay ngoài da hoặc có thể ở bên trong nội tạng của cơ thể.

Nguyên nhân ở ngoài da:

Bệnh viêm da dị ứng: Trong các bệnh viêm da dị ứng có nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có viêm da do tiếp xúc thường hay gặp. Viêm da tiếp xúc là do dị ứng nguyên khi gặp kháng thể gây nên hiện tượng phản ứng biểu hiện là viêm da và gây ngứa, ví dụ viêm da dị ứng ở một số người do đeo quai đồng hồ bằng da hoặc bằng nhựa hoặc viêm quanh thắt lưng quần do giây chun bằng cao su. Cũng có một số người dị ứng với da hoặc cao su nên không đi dép da hoặc dép nhựa được vì hễ mỗi lần đi dép vào là ngứa da vùng tiếp xúc trực tiếp tạo nên phản ứng gây ngứa.

Bệnh mề đay: Mề đay là một bệnh dị ứng da do tiếp xúc với thời tiết lạnh hoặc do ăn, uống với chất hay gây dị ứng ở một số người như tôm, cua, ốc, mắm tôm… Đây là những chất đóng vai trò là dị ứng nguyên khi gặp kháng thể có sẵn trong máu bệnh nhân sẽ gây nên hiện tượng dị ứng. Bệnh mề đay thường xảy ra ngứa đột ngột, dữ dội tại một vùng da nào đó hoặc có khi gần khắp da cơ thể như cánh tay, bụng, đùi, cẳng chân. Đôi khi bệnh mề đay còn xảy ra ở niêm mạc làm sưng mắt, môi, thậm chí gây viêm niêm mạc ruột gây đau bụng, tiêu chảy, viêm, phù thanh quản. Người ta gọi là nổi mề đay vì nổi lên các nốt sẩn, ngứa. Trong bệnh mề đay điển hình nhất là ngứa, người bệnh càng gãi càng ngứa. Các sẩn ngứa to, nhỏ khác nhau đôi khi tạo thành từng mảng. Viền của sẩn ngứa mề đay có màu hồng, trung tâm của sẩn ngứa có màu nhạt hơn.

Bệnh nấm da : Viêm da do nấm là bệnh nói chung, nhưng do nhiều loài nấm khác nhau gây nên (nấm thân, nấm kẽ, nấm móng, nấm tóc…). Mỗi một loài nấm gây bệnh cho da được gọi các tên khác nhau. Bệnh nấm da cũng gây nên ngứa làm cho bệnh nhân rất khó chịu, ví dụ bệnh hắc lào. Bệnh hắc lào là do nấm thân gây nên. Đầu tiên là ngứa vùng bị bệnh, sau đó thấy một vệt màu hơi đỏ, có viền, bờ rõ rệt, trên viền có các mụn nước lấm tấm. Viền này càng ngày càng lan rộng tạo thành nhiều hình vòng cung. Do người bệnh bị ngứa, gãi làm lây lan ra nhiều vùng da khác trên cơ thể. Bệnh hắc lào là bệnh lây từ người này sang người khác do dùng chung quần áo, khăn tắm, ngủ chung giường, chiếu… Muốn phòng bệnh hắc lào cần vệ sinh cá nhân tốt. Không dùng chung quần áo, chiếu, khăn và không nằm chung giường với người bị bệnh hắc lào. Khi nghi bị bệnh hắc lào nên đi khám để được xác định và điều trị dứt điểm tránh lây lan cho người khác.

Bệnh lang ben : là một bệnh do nấm gây ra và cũng gây ngứa ghê gớm. Bệnh gây ngứa đặc biệt là khi người bệnh ra nhiều mồ hôi nhất là khi trời nắng. Bệnh lang ben hay gặp ở cổ, vai, ngực, bụng, cánh tay. Bệnh lang ben cũng lây lan từ người này sang người khác do dùng chung quần áo, khăn mặt, ngủ chung giường… Khi bị lang ben rất nên đi khám bệnh để được làm các xét nghiệm xác định nấm và trên cơ sở đó người thầy thuốc sẽ cho thuốc điều trị thích hợp và tư vấn sát với thực tế hơn.

Gầu da đầu : Ở người nhiều gầu thường kèm theo ngứa da đầu. Gầu là hiện tượng viêm da làm bong lớp sừng ở da vùng đầu. Hiện nay có nhiều loại dầu gội đầu khác nhau và tùy thuộc vào da đầu của từng người. Vì vậy khi bị gầu nên chọn loại dầu gội thích hợp với da đầu của mình mới hy vọng làm giảm hoặc hết gầu.

Nguyên nhân từ trong nội tạng của cơ thể.

Dị ứng thuốc: ngày nay hiện tượng dị ứng thuốc là điều làm cho thầy thuốc hết sức quan tâm. Loại thuốc nào cũng có thể gây nên dị ứng tùy từng cơ địa của từng người (để cả thuốc Tây y và đông y ). Khi dị ứng thuốc, ngoài các triệu chứng khác thì ngứa cũng chiếm một tỷ lệ khá cao.

Bệnh giun sán: Khi mắc bệnh giun, sán thì ngoài rối loạn tiêu hóa có thể có triệu chứng ngứa và nổi mẩn ngoài da. Những trường hợp này người ta ít nghĩ tới chỉ khi đi khám bệnh, xét nghiệm phân mới tìm ra được nguyên nhân và thầy thuốc mới có chỉ định dùng thuốc tẩy giun đúng loại. Song song với việc tẩy giun cần ăn uống hợp vệ sinh, không ăn rau sống và uống nước lã để đề phòng mắc bệnh giun tái phát.

Mắc bệnh tiểu đường (đường máu tăng cao): thường có sụt cân, ăn nhiều, uống nhiều và tiểu nhiều kèm theo có thể có ngứa da. Do ngứa nên gãi nhiều làm xây xước da gây nhiễm khuẩn. Mắc bệnh tiểu đường cần ăn kiêng một số thực phẩm như đường, các loại nước giải khát có đường, bia, rượu, chuối chín. Nên tập thể dục đều đặn. Cần vệ sinh da thật tốt để tránh nhiễm khuẩn.

Bệnh về gan, mật: Các bệnh về gan mật làm tắc mật làm vàng da và gây ngứa. Khi ngứa mà tìm các loại nguyên nhân chưa xác định được thì cần kiểm tra chức năng và kiểm tra gan, mật để xem có viêm nhiễm, sỏi, u hay không. Viêm gan thì có nhiều nguyên nhân nhưng hay gặp nhất là viêm gan do virut và viêm gan do rượu. Muốn phòng tránh viêm gan do virut (virut viêm gan A,B,C) cần được tiêm phòng. Cần bỏ rượu, đặc biệt khi đã có hiện tượng viêm gan bất kỳ do nguyên nhân gì.

Như vậy, muốn hết bệnh ngứa cần tìm nguyên nhân, khi đã biết chắc chắn nguyên nhân của nó thì việc điều trị sẽ có nhiều thuận lợi cho dù là nguyên nhân bên trong cơ thể hay nguyên nhân ngoài da.

Theo suckhoedoisong.vn

Ngứa – Nguyên nhân vì sao?

Ngứa – Nguyên nhân vì sao?

Những ngày qua, tại các phòng khám da liễu của các bệnh viện, bệnh nhân đến khám do sẩn ngứa ngoài da tăng đột biến. Để có cái nhìn toàn diện về căn bệnh ngứa da, chúng tôi xin đăng bài viết của PGS.TS. Bùi Khắc Hậu để bạn đọc tham khảo.

Ngứa da là một triệu chứng thường gặp với nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên. Khi ngứa, người bệnh sẽ gãi làm xây xước da, chảy máu gây nhiễm trùng mưng mủ hoặc ngứa, gãi tạo thành các nốt sẩn, mụn nước, khi khỏi ngứa thường để lại các nốt thâm, thậm chí để lại các nốt sẹo nhỏ. Nguyên nhân gây nên ngứa có thể ở ngay ngoài da hoặc có thể ở bên trong nội tạng của cơ thể.

Nguyên nhân ở ngoài da:

Bệnh viêm da dị ứng: Trong các bệnh viêm da dị ứng có nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có viêm da do tiếp xúc thường hay gặp. Viêm da tiếp xúc là do dị ứng nguyên khi gặp kháng thể gây nên hiện tượng phản ứng biểu hiện là viêm da và gây ngứa, ví dụ viêm da dị ứng ở một số người do đeo quai đồng hồ bằng da hoặc bằng nhựa hoặc viêm quanh thắt lưng quần do giây chun bằng cao su. Cũng có một số người dị ứng với da hoặc cao su nên không đi dép da hoặc dép nhựa được vì hễ mỗi lần đi dép vào là ngứa da vùng tiếp xúc trực tiếp tạo nên phản ứng gây ngứa.

Bệnh mề đay: Mề đay là một bệnh dị ứng da do tiếp xúc với thời tiết lạnh hoặc do ăn, uống với chất hay gây dị ứng ở một số người như tôm, cua, ốc, mắm tôm… Đây là những chất đóng vai trò là dị ứng nguyên khi gặp kháng thể có sẵn trong máu bệnh nhân sẽ gây nên hiện tượng dị ứng. Bệnh mề đay thường xảy ra ngứa đột ngột, dữ dội tại một vùng da nào đó hoặc có khi gần khắp da cơ thể như cánh tay, bụng, đùi, cẳng chân. Đôi khi bệnh mề đay còn xảy ra ở niêm mạc làm sưng mắt, môi, thậm chí gây viêm niêm mạc ruột gây đau bụng, tiêu chảy, viêm, phù thanh quản. Người ta gọi là nổi mề đay vì nổi lên các nốt sẩn, ngứa. Trong bệnh mề đay điển hình nhất là ngứa, người bệnh càng gãi càng ngứa. Các sẩn ngứa to, nhỏ khác nhau đôi khi tạo thành từng mảng. Viền của sẩn ngứa mề đay có màu hồng, trung tâm của sẩn ngứa có màu nhạt hơn.

Bệnh nấm da : Viêm da do nấm là bệnh nói chung, nhưng do nhiều loài nấm khác nhau gây nên (nấm thân, nấm kẽ, nấm móng, nấm tóc…). Mỗi một loài nấm gây bệnh cho da được gọi các tên khác nhau. Bệnh nấm da cũng gây nên ngứa làm cho bệnh nhân rất khó chịu, ví dụ bệnh hắc lào. Bệnh hắc lào là do nấm thân gây nên. Đầu tiên là ngứa vùng bị bệnh, sau đó thấy một vệt màu hơi đỏ, có viền, bờ rõ rệt, trên viền có các mụn nước lấm tấm. Viền này càng ngày càng lan rộng tạo thành nhiều hình vòng cung. Do người bệnh bị ngứa, gãi làm lây lan ra nhiều vùng da khác trên cơ thể. Bệnh hắc lào là bệnh lây từ người này sang người khác do dùng chung quần áo, khăn tắm, ngủ chung giường, chiếu… Muốn phòng bệnh hắc lào cần vệ sinh cá nhân tốt. Không dùng chung quần áo, chiếu, khăn và không nằm chung giường với người bị bệnh hắc lào. Khi nghi bị bệnh hắc lào nên đi khám để được xác định và điều trị dứt điểm tránh lây lan cho người khác.

Bệnh lang ben : là một bệnh do nấm gây ra và cũng gây ngứa ghê gớm. Bệnh gây ngứa đặc biệt là khi người bệnh ra nhiều mồ hôi nhất là khi trời nắng. Bệnh lang ben hay gặp ở cổ, vai, ngực, bụng, cánh tay. Bệnh lang ben cũng lây lan từ người này sang người khác do dùng chung quần áo, khăn mặt, ngủ chung giường… Khi bị lang ben rất nên đi khám bệnh để được làm các xét nghiệm xác định nấm và trên cơ sở đó người thầy thuốc sẽ cho thuốc điều trị thích hợp và tư vấn sát với thực tế hơn.

Gầu da đầu : Ở người nhiều gầu thường kèm theo ngứa da đầu. Gầu là hiện tượng viêm da làm bong lớp sừng ở da vùng đầu. Hiện nay có nhiều loại dầu gội đầu khác nhau và tùy thuộc vào da đầu của từng người. Vì vậy khi bị gầu nên chọn loại dầu gội thích hợp với da đầu của mình mới hy vọng làm giảm hoặc hết gầu.

Nguyên nhân từ trong nội tạng của cơ thể.

Dị ứng thuốc: ngày nay hiện tượng dị ứng thuốc là điều làm cho thầy thuốc hết sức quan tâm. Loại thuốc nào cũng có thể gây nên dị ứng tùy từng cơ địa của từng người (để cả thuốc Tây y và đông y ). Khi dị ứng thuốc, ngoài các triệu chứng khác thì ngứa cũng chiếm một tỷ lệ khá cao.

Bệnh giun sán: Khi mắc bệnh giun, sán thì ngoài rối loạn tiêu hóa có thể có triệu chứng ngứa và nổi mẩn ngoài da. Những trường hợp này người ta ít nghĩ tới chỉ khi đi khám bệnh, xét nghiệm phân mới tìm ra được nguyên nhân và thầy thuốc mới có chỉ định dùng thuốc tẩy giun đúng loại. Song song với việc tẩy giun cần ăn uống hợp vệ sinh, không ăn rau sống và uống nước lã để đề phòng mắc bệnh giun tái phát.

Mắc bệnh tiểu đường (đường máu tăng cao): thường có sụt cân, ăn nhiều, uống nhiều và tiểu nhiều kèm theo có thể có ngứa da. Do ngứa nên gãi nhiều làm xây xước da gây nhiễm khuẩn. Mắc bệnh tiểu đường cần ăn kiêng một số thực phẩm như đường, các loại nước giải khát có đường, bia, rượu, chuối chín. Nên tập thể dục đều đặn. Cần vệ sinh da thật tốt để tránh nhiễm khuẩn.

Bệnh về gan, mật: Các bệnh về gan mật làm tắc mật làm vàng da và gây ngứa. Khi ngứa mà tìm các loại nguyên nhân chưa xác định được thì cần kiểm tra chức năng và kiểm tra gan, mật để xem có viêm nhiễm, sỏi, u hay không. Viêm gan thì có nhiều nguyên nhân nhưng hay gặp nhất là viêm gan do virut và viêm gan do rượu. Muốn phòng tránh viêm gan do virut (virut viêm gan A,B,C) cần được tiêm phòng. Cần bỏ rượu, đặc biệt khi đã có hiện tượng viêm gan bất kỳ do nguyên nhân gì.

Như vậy, muốn hết bệnh ngứa cần tìm nguyên nhân, khi đã biết chắc chắn nguyên nhân của nó thì việc điều trị sẽ có nhiều thuận lợi cho dù là nguyên nhân bên trong cơ thể hay nguyên nhân ngoài da.

Theo suckhoedoisong.vn

Đọc thêm..

Mề đay

Mề đay (MÐ) là một phản ứng gây phù tại chỗ và ở ngoài da. Mề đay có hình dạng không đều, kích thước cũng khác nhau: Từ sẩn đỏ bằng đầu đũa đến nổi to từng mảng đỏ, sưng phù, luôn luôn kèm theo triệu chứng ngứa. Mề đay có thể nổi vào buổi sớm sau khi ngủ dậy, nổi lúc chiều tối hoặc có thể cả ngày.

Vị trí thường nổi Mề đay là thân mình, mông, đùi hoặc chỗ da bị bó chặt như lưng quần, nịt vú. Có dạng đặc biệt là Mề đay nổi dưới da, thường làm phù mí mắt, phù môi, phù trong cổ họng. Loại Mề đay này có thể đi kèm mệt, đau bụng, đôi khi gây khó thở, chết người.

Ðặc điểm của MÐ là xuất hiện từng cơn trong vài giờ rồi biến mất. Nếu kéo dài trong vài tuần là MÐ cấp tính, nếu bệnh trên 6 tuần là MÐ mãn tính.

Nguyên nhân:

1. Thực phẩm, thức uống, gia vị: Thức ăn hay bị “đổ thừa” nhất là đồ biển như: sò, nghêu, cua, ghẹ, cá biển. Các loại sôcôla, sữa, bơ, phó mát. Nhóm thực vật là dưa gang, dưa tây, cà chua, trái dâu, kể cả hành, tỏi. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng thức ăn thông thường nhất, “lành nhất” cũng có thể gây bệnh.

2. Các chất phụ gia: Cũng là yếu tố quan trọng. Chúng có thể là chất tự nhiên như các loại men, con giấm hoặc chất hóa học dùng để bảo quản và nhuộm màu thực phẩm.

3. Thuốc men: Có rất nhiều thứ thuốc có thể gây dị ứng và nổi MÐ. Ðáng kể nhất là Penicilline rồi đến Aspirine, Sulfamides; các loại thuốc ngủ, thuốc an thần, thuốc trị đau nhức xương khớp, thuốc ngừa thai và còn nhiều loại khác.

4. Nhiễm trùng: Các ổ nhiễm trùng, nhiễm nấm tiềm tàng thường gây bệnh MÐ mãn tính như viêm xoang, sâu răng, nhiễm trùng đường tiểu, đường hô hấp trên như viêm mũi – họng.

5. Các loại bụi nhà, bụi phấn hoa, bụi lông thú và các loại ky sinh trùng cũng thường là nguyên nhân của MÐ mãn tính.

6. Các yếu tố xúc cảm, thay đổi nhiệt độ, áp lực cọ xát do quần áo chật bó cũng có thể làm nổi MÐ.

Phát hiện nguyên nhân:

Vì có quá nhiều nguyên nhân gây bệnh, người bệnh cần phải thật chú y mới hy vọng giúp thầy thuốc tìm ra nguyên nhân chính gây bệnh để trị tận gốc. Khi có triệu chứng phù môi, sưng mặt hoặc khó thở phải đến cơ quan y tế sớm để được cấp cứu nếu cần. Sau đây là cách phát hiện nguyên nhân trong thực phẩm ở người bị MÐ mãn tính lẫn cấp tính, bằng chế độ ăn loại trừ: Bắt đầu ăn trong 3 tuần chỉ gồm các loại không có chất dị ứng như gạo, khoai tây, cà rốt, các loại đậu, bí, bầu, thịt trừu, thịt bò, cữ rượu. Có thể uống trà, cà phê nhưng không có sữa. Nếu MÐ không xuất hiện thì ta bắt đầu ăn thêm từng món nghi ngờ. Ăn đến món nào thấy MÐ nổi lên thì đó là nguyên nhân gây bệnh phải tránh sau này và cứ như thế tiếp tục.

Mề đay

Mề đay

Mề đay (MÐ) là một phản ứng gây phù tại chỗ và ở ngoài da. Mề đay có hình dạng không đều, kích thước cũng khác nhau: Từ sẩn đỏ bằng đầu đũa đến nổi to từng mảng đỏ, sưng phù, luôn luôn kèm theo triệu chứng ngứa. Mề đay có thể nổi vào buổi sớm sau khi ngủ dậy, nổi lúc chiều tối hoặc có thể cả ngày.

Vị trí thường nổi Mề đay là thân mình, mông, đùi hoặc chỗ da bị bó chặt như lưng quần, nịt vú. Có dạng đặc biệt là Mề đay nổi dưới da, thường làm phù mí mắt, phù môi, phù trong cổ họng. Loại Mề đay này có thể đi kèm mệt, đau bụng, đôi khi gây khó thở, chết người.

Ðặc điểm của MÐ là xuất hiện từng cơn trong vài giờ rồi biến mất. Nếu kéo dài trong vài tuần là MÐ cấp tính, nếu bệnh trên 6 tuần là MÐ mãn tính.

Nguyên nhân:

1. Thực phẩm, thức uống, gia vị: Thức ăn hay bị “đổ thừa” nhất là đồ biển như: sò, nghêu, cua, ghẹ, cá biển. Các loại sôcôla, sữa, bơ, phó mát. Nhóm thực vật là dưa gang, dưa tây, cà chua, trái dâu, kể cả hành, tỏi. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng thức ăn thông thường nhất, “lành nhất” cũng có thể gây bệnh.

2. Các chất phụ gia: Cũng là yếu tố quan trọng. Chúng có thể là chất tự nhiên như các loại men, con giấm hoặc chất hóa học dùng để bảo quản và nhuộm màu thực phẩm.

3. Thuốc men: Có rất nhiều thứ thuốc có thể gây dị ứng và nổi MÐ. Ðáng kể nhất là Penicilline rồi đến Aspirine, Sulfamides; các loại thuốc ngủ, thuốc an thần, thuốc trị đau nhức xương khớp, thuốc ngừa thai và còn nhiều loại khác.

4. Nhiễm trùng: Các ổ nhiễm trùng, nhiễm nấm tiềm tàng thường gây bệnh MÐ mãn tính như viêm xoang, sâu răng, nhiễm trùng đường tiểu, đường hô hấp trên như viêm mũi – họng.

5. Các loại bụi nhà, bụi phấn hoa, bụi lông thú và các loại ky sinh trùng cũng thường là nguyên nhân của MÐ mãn tính.

6. Các yếu tố xúc cảm, thay đổi nhiệt độ, áp lực cọ xát do quần áo chật bó cũng có thể làm nổi MÐ.

Phát hiện nguyên nhân:

Vì có quá nhiều nguyên nhân gây bệnh, người bệnh cần phải thật chú y mới hy vọng giúp thầy thuốc tìm ra nguyên nhân chính gây bệnh để trị tận gốc. Khi có triệu chứng phù môi, sưng mặt hoặc khó thở phải đến cơ quan y tế sớm để được cấp cứu nếu cần. Sau đây là cách phát hiện nguyên nhân trong thực phẩm ở người bị MÐ mãn tính lẫn cấp tính, bằng chế độ ăn loại trừ: Bắt đầu ăn trong 3 tuần chỉ gồm các loại không có chất dị ứng như gạo, khoai tây, cà rốt, các loại đậu, bí, bầu, thịt trừu, thịt bò, cữ rượu. Có thể uống trà, cà phê nhưng không có sữa. Nếu MÐ không xuất hiện thì ta bắt đầu ăn thêm từng món nghi ngờ. Ăn đến món nào thấy MÐ nổi lên thì đó là nguyên nhân gây bệnh phải tránh sau này và cứ như thế tiếp tục.

Đọc thêm..